Mẹ tôi lớn lên trong một gia đình nông dân.
Cha tôi là du kích chống Pháp đã hy sinh năm 1952. Lúc còn nhỏ tôi thường nghe
chuyện cổ tích, đó là chuyện tình Đá Thề. Mẹ kể rằng: Hai hòn đá nằm giữa làng
Hải Vạn và Hải Xuân là chứng tích của một câu chuyện tình li kỳ của đôi trai
gái đắm đuối yêu nhau bị tan vỡ do định kiến giữa hai làng. Làng Hoà Xuân thuộc
huyện Lệ cách làng Hải Vạn một con hói nhỏ. Trai làng lớn lên chỉ lấy gái làng.
Trớ trêu thay cô gái làng bên đem lòng
yêu chàng trai. Họ thường gặp gỡ nhau những buổi làm đồng. Một hôm chàng trai
làng Hoà Xuân chèo đò đi thăm đồng thấy dưới dòng sông có một người chới với sắp
chìm giữa dòng. Không ngần ngại anh nhảy ào xuống nước lao đến chỗ có dòng nước
xoáy, túm tóc cô bơi vào bờ rồi xóc ngược cô gái chạy một vòng. Nước từ miệng ọc
ra. Chàng đặt cô lên chiếc thuyền nhỏ đưa cô về làng bên.
Từ đó tình yêu họ chớm nở. Những đêm trăng
hẹn hò. Chàng trai đưa cô gái ra cồn bãi ngồi ngắm trăng lên. Ánh trăng vằng vặc
soi xuống phá nước mênh mông. Tình yêu đã vượt qua định kiến “trâu ta ăn cỏ đồng
ta” họ quyết định ra mắt cha mẹ đôi bên. Bố mẹ cô gái thương con nhưng
không dám “bước qua lời nguyền” của
làng mình.
Tình yêu của đôi trai gái ngày càng mãnh
liệt. Đêm đêm nghe tiếng sáo của chàng trai, cô gái “xăm xăm băng lối vườn
khuya một mình” đến cồn bồi. Họ thề rằng nếu không được bên nhau kiếp này thì
kiếp khác họ là đôi uyên ương như câu chuyện cổ tích Ngưu Lang Chức Nữ.
Ít lâu sau, người làng Hoà Xuân không thấy
bóng dáng của đôi trai gái đâu nữa chỉ thấy vị trí giữa hai làng có hai hòn đá
tựa lưng vào nhau, nhiều hòn nhỏ mọc quanh. Dân làng Hoà Xuân gọi hai hòn đá to
là đá cha đá mẹ; những hòn đá nhỏ là đàn con sinh sôi nảy nở.
Xung quanh câu chuyện Đá Thề người xưa kể lại
mỗi người một kiểu. Huyền thoại Đá Thề trở nên bí ẩn đã làm người ta sợ “u hồn ma” hiện lên bất cứ lúc nào. Trời chập
choạng tối không ai dám ngang qua Đá Thề.
Tôi yêu mẹ.Tôi lớn lên nhờ hạt gạo cọng rau
từ mảnh đất quê. Nhà tôi nghèo lắm nên vừa
học xong cấp 2 tôi thi vào trường sư phạm trung cấp của tỉnh. Khi ra trường tôi
dạy vùng núi xa nhà vài chục cây số. Những chiều thứ bảy về nhà tôi thường
ngang qua Đá Thề. Chiến tranh bom cày đạn xới, quê hương bị tàn phá nặng nề, ở
Đá Thề có một cái giếng nước chảy quanh năm như dòng sữa mẹ đã tưới cho những
thửa ruộng tươi tốt mùa màng bội thu.Từ đó câu chuyện Đá Thề lãng quên.
Mẹ tôi giục lấy chồng để có con bồng con bế.
Chuyện lấy chồng chỉ là ngày một ngày hai vì tôi là đứa con gái độc nhất. Với
tôi chỉ mong kiếm được một chàng mặc áo Tô Châu. Trời xui đất khiến thế nào tôi
đã gặp được thần tượng của mình. Anh tên là Lê Văn Đồi, người làng Bún, bạn học
cũ hồi cấp 2. Đồi học lên cấp 3 rồi vào Đại học Bách khoa. Năm 1967, theo tiếng
gọi tổ quốc anh nhập ngũ. Sau đó vài tháng huấn luyện anh trên đường vào Nam chiến đấu. Đơn vị anh dừng chân
gần trường tôi công tác.Tình cờ tôi gặp anh. Trong thời gian lưu quân, Đồi thường
ghé thăm tôi. Tình cảm ngày một mặn mòi, chúng tôi đưa nhau về định xin phép
cha mẹ tôi tổ chức hôn lễ. Hôm ấy,chúng tôi đi bộ suốt cả buổi chiều. Chân mỏi,
miệng khát đến dại người. Đồi đã dùng mũ cối múc nước cho tôi uống. Anh nhìn
tôi mệt mỏi, dắt tôi đến một phiến đá phẳng lì rồi ngắt một chùm me tím cầu hôn
tôi. Tôi nói với anh, đừng cầu hôn em chỗ này? Vì sao? Tôi ậm ờ… Nếu nói với
anh về sự ám ảnh của câu chuyện Đá Thề nhưng sợ anh hỏi vằn vèo mất thời gian
nên tôi đánh lãng: “Không có gì”. Tôi đã
đến với anh một tình yêu kiểu lính, giản đơn như thế. Chúng tôi khao khát trao
trút cho người mình yêu. Tôi mến đôi mắt anh sáng long lanh dưới đôi mày rậm rạp.
Giọng nói ấm trầm và đôi môi ngọt lịm.
Tôi bước vào nhà. Trời vừa chập choạng tối.
Mẹ tôi hỏi:
- Hai đứa bay đã thiệt ưa nhau chưa? Nếu thiệt rồi, tau cho tổ chức ngay!
Tôi vờ ngạc nhiên, làm nũng mẹ:
Anh
đưa mắt ý tứ, thưa với mẹ:
…Đêm ấy tôi mệt và thiếp đi. Đồi cũng nhận
lệnh gấp gáp phải lên đường, chưa kịp làm các thủ tục kết hôn. Anh kịp để lại
cho tôi lời nhắn :
Anh đi vào Nam chiến đấu không hề gửi cho tôi
một dòng thư. Cái thời chúng tôi cơm
đong gạo đếm. Cuộc sống thật khó khăn. Có hàng trăm giáo viên trong cả nước bỏ
việc. Cái gì đến nó sẽ đến. Thế rồi, tôi bỏ ăn, thèm đồ chua, cây khế sau văn
phòng trường quả vừa nhỉnh hơn ngón tay cái tôi vặt sạch. Mỗi lần tắm nhìn hai cồn vú ngày một căng, nhô cao chặt cả áo
xu- chiêng, nuốm vú thâm quầng. Tôi sẽ có con với anh và tôi làm trọn lời thề ở
Đá Thề! Cái bụng tôi ngày càng to, và tôi cũng chẳng muốn dấu diếm, vả lại dấu
cũng không được. Một hôm, sau tiết 4 cuối buổi, ông hiệu trưởng gọi tôi lên tra
hỏi, ông quắc mắt, quát: “Cô đã làm mất thanh danh người giáo viên nhân dân,
bao nhiêu công lao của Hội đồng giáo dục nhà trường đang xây dựng “Tổ đội Lao động
xã hội chủ nghĩa” cô đem đổ xuống sông” . Tôi mếu máo: “Báo cáo anh, anh ấy là
một người cùng quê, là một người lính đang chiến đấu tại chiến trường Miền Nam,
em không phải “ba lăng nhăng”, chúng em yêu nhau chân chính…” “Hừ! Chân chính,
ai chứng minh điều đó. Tôi sẽ báo cáo vụ việc này lên Phòng giáo dục, phải đuổi
cô ra khỏi ngành! Cô về làm kiểm điểm!”.
Và, chín thang mười ngày,
tôi sinh một cháu trai khấu khỉnh. Tôi đặt tên cháu là Trần Bình Giang. Cháu lấy
họ của tôi.
Có
hàng đêm tôi đối diện với mình. Có nên khai thật tên cha của Bình Giang. Cuối cùng tôi quyết định Bình Giang là con
riêng tôi. Tôi không nghĩ được gì to tát; tôi chấp nhận án kỉ luật. May nhờ có
anh trai tôi có chức có quyền làm ở huyện xin cho tôi làm nhân viên văn phòng,
quét rác, đánh trống báo động khi có máy bay để học sinh tìm hầm trú ẩn.
Đình chiến rồi giải phóng miền Nam,
anh vẫn biệt vô âm tính. Những trai làng ra đi năm ấy, có người gửi thân xác
cho đất gửi hồn cho non nước; có người trở về quê. Chiều chiều, tôi ôm Bình
Giang đến bến phà gần đó mong tìm anh. Hết đoàn xe này, đến đoàn xe khác ra Bắc
vào Nam
vẫn không thấy. Tôi thất vọng, đêm đêm cầu nguyện cho anh được bình an. Một năm,
hai năm rồi… Bình Giang học lên lớp năm, thi học sinh giỏi huyện đoạt giải nhất
môn toán. Một buổi sáng chủ nhật tôi đi chợ, nghe các bà trong làng thì thầm nửa
kín nửa hở về Đồi. Tôi tìm đến nhà của Thiệp – người làng Bún, bạn cùng đi chiến
trường đợt ấy.
Thiệp gặp tôi, mừng lắm. Anh pha trà Bảo Lộc mời tôi, nhấp một ngụm nước
trà, tôi vào câu chuyện:
- Anh Thiệp có tin tức gì về
anh Đồi không?
- Hắn chết rồi! - Anh nói tỉnh
bơ.
- Sao không có giấy báo tử?
- Hắn sống mà như chết, hắn
đã phản bội, làm ô nhục thanh danh người Quảng Bình, quê hương hai giỏi!
- Có nghĩa là anh ấy đầu
hàng giặc?
- Không phải thế, khi tiếp
quản, hắn ở trong Ban quân quản của Quận. Đi về cơ sở công tác, hắn gặp phải một
mụ vợ sĩ quan quân đội Việt Nam
cộng hòa. Chồng di tản, vợ kẹt lại. Bà này hai con nhưng còn xinh đẹp, nước da
nõn nà, đôi mắt sắc và đen huyền như hạt nhãn, con gái đôi mươi không sánh nổi;
lại có tiền vàng tích tụ trước chiến tranh. Hắn mê ngay, và bị cơ quan thi hành
kỷ luật, tước quân tịch, đuổi khỏi cơ quan…
- Đồ “tham vàng phụ nghĩa”…
- Diệu có quen biết hắn à?
- Tôi đã sinh cho hắn một đứa
con, một thằng con trai hẳn hoi!
Tim tôi như ngừng đập, đau đớn. Thế mà tôi
vẫn chờ và chờ! Mấy năm sống trong tủi hờn. Tôi không thể quên được lời hẹn “Diệu!
Hãy chờ anh”. Cái giá tuổi thanh xuân; án kỉ luật có con không chồng, sự cô đơn
và sự thoá mạ của người đời. Việc tôi có con không chồng đã làm mẹ xấu hổ. Mẹ
tôi đay nghiến, đuổi tôi ra khỏi nhà. Mẹ con tôi sống tập thể đã khiến tôi cứng
cáp hơn. Tôi không còn sợ ai đó vô tình hỏi bố Bình Giang.
Tôi choáng váng, Thiệp vội đỡ tôi dậy và hỏi:
Tôi ngồi xuống khóc rấm rứt cho nỗi đau lắng
xuống. Tôi nói với anh:
- Anh Thiệp! Tại tôi thất vọng quá hoá nỗi
đau. Nhưng giờ tôi đã vượt qua ranh giới khổ đau. Nay cháu Giang cũng đã lớn. Cái án hình phạt
của tôi cũng được xoá. Tôi về dạy ở trường làng. Bình Giang đã tốt nghiệp phổ
thông và thi vào học viện quân sự. Khúc tình sử bi ai lắng vào dĩ vãng. Người đời
cũng hết bêu riếu tôi. Bình Giang trắng trẻo, cao, khoẻ mạnh là nguồn động viên
lớn nhất của tôi.
- Dù sao em đã có Bình Giang. Như anh đây
trong người anh mang đầy thương tích. Anh bị nhiểm chất độc da cam. Anh không lấy
vợ nữa.
Tôi nhìn anh thông cảm. Tâm tư của anh đầy
xa xót. Lúc này tôi thấy tầm suy nghĩ
mình thật nhỏ nhoi. Đất nước thanh bình
rồi nhưng trong lòng mỗi người đều có mất mát riêng. Tôi không muốn khơi thêm nỗi
đau âm ỉ trong lòng anh. Thiệp nhìn tôi và hỏi:
- Sao em đặt tên con Bình Giang?
-Cha Đồi núi, con sông (giang) suối!
Vơi lại, trước mặt Đá Thề là nguồn nước sông Bình Giang (thượng nguồn Kiến
Giang) chảy về… để ghi lại mối tình đầu lắm trắc trở!
- À ra
thế. Tất cả đều có cơ duyên. Nói thật với em, nhiều lần tôi và Đồi nói chuyện với
nhau nhưng không hề nhắc tới tên em. Đồi có biết em có bầu không? Thật ra lúc
sáng, bố Đồi có đến đây hỏi thăm. Anh chỉ nói với ông, gặp Đồi chứ không cho
ông biết Đồi thoái hóa biến chất . Mong em hiểu cho. Ông bảo vì ông mà em chịu
thiệt thòi. Đồi chỉ làm vui lòng cha mẹ. Đồi không yêu em! Anh nói có đúng
không?
.
-Anh nói gì? Đó là lời của Đồi hay ông già? Đồi không yêu em ư? Tại sao anh ta
dám mở lời không yêu tôi? Ai bắt anh ta
đến gặp tôi? Ai bắt hắn làm việc đó? Trong đầu anh ta nghĩ gì vậy?
Thiệp
nhìn tôi thông cảm.
-Cuộc
đời là vậy đó. Thế giới của tình yêu đầy bất trắc. Em nói cũng có phần đúng.
Hôm đó Đồi xin ghé về nhà tối lên đơn vị. Vài ngày sau đơn vị mới đi B dài. Anh
nghe Đồi kể về em chỉ một lần duy nhất.Tại sao em không cho họ hàng và ông nội
Bình Giang nhận nhau.
-Nhận
họ hàng để làm gì? Chỉ làm thằng bé phân tâm, nhất là lúc nó cật vấn mẹ, hỏi mẹ
cha đâu thì tôi làm thế nào?
Đúng
là tình yêu đã đi hết vòng tròn oan nghiệt. Thà tôi nhận được tin hắn tử trận
còn hơn nghe hắn nấp dưới váy đàn bà. Đáng lẽ ra anh đừng kể thì tôi còn một
chút tình thương với hắn.
Hắn
những tưởng trong tay có vàng thì cuộc đời sẽ lấp lánh, cuộc sống của đại gia
thật tuyệt. Đi đâu cũng được nể trọng bởi hào quang ? Bộ cánh bảnh bao, xe hơi
bóng nhoáng trị giá đến tiền tỉ thì thiên hạ nể trọng? Nhưng hắn nhầm!
- Vậy chuyện của em, với Đồi…?
- Chuyện
tôi có con với hắn?
- Không,
không anh khống dám đụng chạm đến riêng tư của em...
- Thôi,
anh đừng nói nữa! Đời con gái của tôi đã dâng cho kẻ líu lưỡi. Trời ơi! “Cầm vàng mà lội qua sông / vàng rơi không tiếc,
tiếc công cầm vàng”. Tôi cũng muốn mặc áo cưới; tôi muốn con tôi có cha. Hắn
không yêu tôi. Không yêu…hu hu… Tôi quá tin người. Đó cũng là bài học quá đắt
giá. Thời gian không quay lại. Những sợi tóc mai màu mây trắng phất phơ trêm
mái đầu.
Tôi lau nước mắt, lấy bức thư của Bình
Giang đưa cho Thiệp.
“Kiên Giang, ngày 29 tháng 3 năm 198…
Mẹ kính yêu của con!
Con vào Kiên Giang được phân về phụ trách một đồn biên phòng
vùng biển. Tình hình cũng khá phức tạp, nhất là những vụ vượt biên, công tác
chúng con phải liên tục ngày đêm, nên người con có hơi sút. Nhưng không sao, mẹ
đừng lo. Lần trước mẹ gợi ý, con cũng đã tuổi gần 30 nên lo chuyện vợ con.
Trong này cũng có nhiều cô mến lắm, dễ thương lắm! Nhưng con muốn có người vợ ở
quê để đỡ đần cho mẹ khi đau ốm, già yếu.
Có một chuyện mà con linh cảm mẹ ạ, đắn đo mãi và cuối cùng
nên nói cho mẹ hay: Một chuyến vượt biên, đơn vị con bắt được 12 người, trong
đó có một người cùng quê Quảng Bình. Ông ta tên Lê Văn Đồi! Ông ta đi với người
vợ, mang đi một số vàng rất lớn, lại định hối lộ cho con để thoát tội. Ông ta cứ
nhìn chằm chặp vào con, nói nên thông cảm cho “đồng hương”.(Có lẽ ông nghe giọng
con rồi nhận phứa đồng hương). Nhưng con kiên quyết xử lý, không nhân nhượng…
Cuối thư, con kính chúc mẹ khỏe. Vui lên mẹ nhé!
Con: Lê Xuân Giang”
Tôi
chia tay Thiệp trong mỗi người chúng tôi đều có những cảm xúc khó tả.
Tôi
cùng mẹ lửng thửng bách bộ trên bờ đê dưới trời chiều. Đoạn, mẹ dừng lại ôm
choàng lấy vai tôi vừa khóc vừa van xin:
- Con
hãy tha thứ cho mẹ! Tất cả là tại mẹ. Vì mẹ muốn con lấy chồng gần nên mẹ đã nhận
lời bố của thằng Đồi. Mẹ đã hại đời con rồi. Con hãy tha thứ cho mẹ!
Tôi
ôm chặt lấy mẹ và nước mắt tôi ràn rụa:
- Mẹ
ạ! Tất cả tại con. Nếu không phải tại con thì làm sao con có Bình Giang. Con
gái lênh đênh mười hai bến nước. Có ai muốn dang dở đâu. Con xin lỗi! Mẹ đừng tự trách mình nữa. Mẹ đừng
nhắc đến chuyện này nữa mẹ nhé!
Thật
tội cho mẹ! Trái tim mẹ gọi lời bao dung run rẩy. Tám hai tuổi, ngày nào mẹ
cũng muốn bù đắp những thiệt thòi của đứa con gái duy nhất. Những áng mây phảng
phất lúc mờ lúc hiện. Đá Thề! Nơi ấy tôi
nhận lời cầu hôn của hắn; nơi ấy đã làm cho tôi đau khổ suốt một đời…
TRƯƠNG THỊ CÚC
___________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét