- Tâm à, bây giờ
mình ngồi đây, giống bao núi khác: có đá, có hoa, có mây trời hờ hững… Em thấy
gì khác các núi kia?
Tâm hồn nhiên:
- Em có đi đâu
mà so sánh? Hồi nhỏ tới giờ chỉ ngồi đây với mẹ, dưới chân núi nầy, ôm đèn
nhang, trái cây bán cho khách thập phương kiếm tiền lời đi học. Anh trèo qua mấy
núi, lội qua mấy sông rồi kể em nghe đi!
Lòng rung động,
Thanh nói:
- Anh thấy trên
núi nầy có cái lạ là những trái mít lùi nằm yên ắng trong lòng đất chợt chín thơm
lên bốc mùi dưới chân, nếu ta đào lên ăn chắc ngon lắm?
Tâm yêu kiều phản
ứng:
- Nó hôi sao gọi thơm? Anh ăn dính miệng
hôn người yêu chê anh liền!
- Nó thơm. Ăn
cái gì không rửa miệng mới thành hôi!
- Sầu riêng thơm
hay hôi?
- Ai cho sao cũng
đúng. Theo anh là thơm.
- Mai mốt thành
vợ thành chồng anh mua về gói vô mùng ăn một mình đi hen!
- Em ở đâu?
- Về má!
- Trời đất!
Tâm sự hai người
không gây cấn mà duyên dáng biết thành kỷ niệm đến bao giờ...
Trai gái ngày đó
yêu nhau khác lắm, nhiều khi nó giữ khoảng cách cho tới ngày chia ly vĩnh viễn.
Có đôi lứa gặp gỡ nắm tay nhau vài lần là mãn nguyện xem như đã vợ chồng suốt
kiếp, có người giữ trinh nguyên cho hẹn hò trăm năm mà quên mất thời gian tàn
nhẫn sẽ không ủng hộ khi mình cằn cỗi.
Thanh thơ thẩn
nhìn lên bầu trời nhiều mây, rồi ngó xuống chân núi xa hỏi:
- Ờ mà Tâm à, có
một điều anh yêu lạ lùng trái núi nầy.
- Gì?
- Phượng hồng.
Thanh nắm tay
Tâm dắt ra hòn đá dốc, nhìn lớp lớp những hoa phượng trổ rộ vào hè, nói tiếp:
- Tuổi học trò
không gì gắn sâu vào tâm thức bằng phượng. Có khi hoàn cảnh không để người ta
yên bình ngắm nghía chúng đến ngất ngây.
- Gì đâu? (Tâm hỏi
lưng lững).
- Em nhìn kia,
có những cánh phượng bị trúng đạn tan tác! Giống như anh, tan tác từ năm mười bảy
tuổi… Đang vui học đùng một cái bị “đôn quân bắt lính”, phải xa rời bè bạn trốn
chui nhủi từ miền Đông về miền Tây, từ núi Bà Tây Ninh về núi Bà Châu Đốc, luồn
lách trong dòng chảy khắc nghiệt của cuộc sống. Mỗi chiều tan trường nhìn những
tà áo dài trắng bay dưới các chân núi mà nhớ thiết tha những nữ sinh Đoàn Thị
Điểm ở Cần Thơ. Đau nhất là mỗi độ hè về nhìn người ta đi thi còn mình lo chạy
trốn…
Thanh ngã đầu
vào chiếc nón lá bài thơ của Tâm đang úp trên đầu gối, khóc. Thanh phát hiện
bên trong nón có vài câu thơ tình ai đó khắc nên: “Che em như nỗi mong chờ/
Che nghiêng nắng đổ hững hờ đường duyên”... Thanh muốn xé nón ăn luôn vào
lòng.
Tâm hiểu nỗi sụt
sùi của Thanh, nhìn ưu tư vào mắt người yêu:
- Đất nước hết
chiến tranh, anh đi học lại có sao đâu?
Thanh nhìn xa
xăm lên vòm trời:
- Vài năm thôi
đã trễ nải một kiếp người…
Tâm chỉ tay vào
trán Thanh:
- Bi quan!
Tâm mở gói giấy
lấy ra hai ổ bánh mì kẹp thịt mời Thanh cùng ăn. Nhìn xuống chân núi xa, độ dốc
đứng làm Tâm hơi sợ, nàng đùa:
- Có đôi tình
nhân nào khóa tay nhau nhảy núi chưa ta?
- Em khùng à,
lên núi đừng nói bậy! Leo núi mệt cũng nói khỏe.
- Con khỉ khô, mệt
nói mệt, nhân gian nhiều kịch bản. Nếu một trăm năm qua không có cặp tình nhân
nào khóa tay nhau nhảy núi thì một ngàn năm nữa sẽ có! Thanh đăm chiêu, Tâm tiếp:
- Anh nhìn mấy
cây cổ thụ trên núi nầy xem, chúng tuyệt đối cố định với ta nhưng lại quay cuồng
giữa vũ trụ bao la, có cây đã trụ hằng trăm năm, thậm chí hằng nghìn năm. Biết
bao sự kiện tang bồng đến với nó, con vật nầy tha xác con vật kia lên cành cây ăn
thịt, biết đâu trong ấy có cả thịt người? Máu me đổ thấm vào thân cây. Muôn kiếp
con người cùng đá núi, chuyện hy hữu nào không thể xảy ra trong thế giới đầy sắc
màu nầy? Mai kia mốt nọ ở đồng bằng sông nước của mình biết đâu sẽ mọc lên mấy
cây cầu duyên dáng treo lơ lửng trên không, có những cặp tình nhân yêu không
thành, buồn ôm nhau nhảy xuống sông tự tử?
- Thôi dẹp chuyện
nghìn năm vĩnh biệt đi bà thần, nói nghe ghê ớn!
- Anh sợ thì em
nhảy một mình ha? Hay anh nhảy đi em ở lại lấy chồng khác làm ăn!
Thanh nắm tay
Tâm giựt mạnh lại, ôm sát nàng vào lòng. Họ đã hôn nhau một hơi dài đắm đuối rồi
trò chuyện mải mê không hết đề tài cho đến khi nhìn thấy mặt trời sắp lặn, chim
chóc mỏi mệt không tha thiết chuyền cành, vài tiếng chuông buồn vọng từ hang động
đơn côi...
Chia tay nhau
chiều hè năm đó, trước khi về nhà Tâm tặng Thanh chai dầu gió hiệu “con sóc”.
Người thư sinh nhợt nhạt giữa núi đồi nhờ chai dầu xứt bụng mỗi khi yếu lạnh.
Có đêm thanh vắng, Thanh vào am cốc ngủ chung với các thầy tu, những người ẩn dật
muốn xa lánh trần tục suốt đời quay quần trong hang động không thiết tha với thế
giới đất bằng, tự nguyện khổ hạnh, sống chung với họ, Thanh nghe lòng khuây khỏa.
Trong những tình huống cô đơn thì đá núi, cây cỏ, con người, chùa chiền, am cốc…
đều có sức ấm làm chỗ dựa tinh thần tốt cho kẻ tha hương. Thanh nhìn nhiều tên
người ai khắc vào đá, có tên nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ nổi tiếng ở An Giang thời
đó. Có thể họ buồn tình, buồn đời tự tạc tên mình vào vách núi cheo leo với hy
vọng người yêu nào trèo lên bắt gặp rung động con tim hoặc gởi hồn đau vào cõi
mông mênh mây gió như một lời thề nguyền gắn bó với đá núi thiên thu?
*
Mẫu chuyện kể
trên đã lưu dấu vào máu tim ông Thanh đã gần năm mươi mùa phượng vĩ. Hôm nay
tóc xanh đã đổi trắng cả đầu nhưng ông Thanh cố leo lên lại cái nơi ông đã từng
ngồi tâm sự với người yêu. Đỉnh núi Sam cao vời có một bàn đá mà theo truyền
thuyết là nơi bà Chúa Xứ (xưa gọi là Chúa Sứ) an vị lần đầu trước khi được chín
nữ đồng trinh mang xuống mặt đất lập đền thờ. Ông Thanh cố tìm lại gốc mít ngày
xưa cùng Tâm ngồi ăn bánh mì kẹp thịt. Mùi mít chín từ lòng đất xông lên ngày ấy
đã tàn phai theo năm tháng phong sương. Lúc đó tính trật tự không cho phép ông
đào bới những trái mít chín lùi đãi Tâm vì ông nghĩ rằng: của cải thiên nhiên
mình không góp bàn tay lao động vào thì không nên khai thác hãy dành đó cho những
ai có công hoặc cứ để yên cho đá núi tạo lập lại sinh khí đất trời. Những hàng
phượng đỏ rung linh rợp cả bầu trời xưa cũng theo luật dâu bể còn lác đác, chỉ
có đá núi là mãi mãi trơ gan cùng tuế nguyệt. Cục đá tròn tròn Thanh và Tâm ngồi
ngày ấy vẫn đó sạm màu và nhẵn trơ hơn khi nhân loại tìm đến ngày càng đông làm
bào mòn thân thế vô hồn cứng nhắc không lay động. Đá muôn đời ít khi trôi tróc
trừ bão lũ làm thay đổi số phận ngàn năm. Thanh nhìn trời đất bao la mây vẫn bạt
ngàn bay về vô định, lòng muốn đào sâu xuống lớp cát và đá cây tích tụ rêu mờ
tìm chút hình ảnh và dư hương, chả còn gì tờ giấy dầu gói bánh mì mà Thanh và
Tâm cố chôn chặc vào khe đá gần nửa thé kỷ.
Ông Thanh lại tiếc nuối, lòng vương vấn ngỗn ngang. Kỷ niệm tuổi thanh
xuân quay về làm ông già bóng ngã xế chiều bật khóc. Theo khoa học chứng minh nước
mắt cũng cần cho sức khỏe! Những người già không còn muốn chiêm nghiệm đến cuộc
đời bể dâu nữa thì khóc là sự ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và bờ môi khô héo.
Đến với kỷ niệm
xong, ông Thanh quay về nhà...
*
Hôm
qua thằng cháu nội moi trong hộc tủ bụi bặm của ông Thanh một cuốn “Lưu bút
ngày xanh” của cô em gái út ông thời trung học, cô cũng có tên là Phượng, chết
khi tuổi đời chưa đến đôi mươi. Cô nằm bất động im lìm dưới hố bom bên trên tan
tác những nhành phượng đỏ. Cuốn lưu bút úa vàng những bức ảnh trắng đen của bạn
bè cô em một số phai mờ, một số bị mối mọt ăn, một số còn rõ nét kèm các lời
ghi cho nhau làm kỷ niệm, tựu trung nói đến cuộc chia ly mùa hạ. Có người tiên
liệu tương lai; có người ẩn ý nói về thế hệ cần dấn thân đại cuộc… Người thì
ghi đủ họ tên địa chỉ; người nói bóng gió xa xôi khó hiểu rồi bỏ lửng lờ; người
viết dài thòng thọc hai ba trang; người không dán ảnh tự họa hình mình một cách
kỳ quái. Ông Thanh ngậm ngùi, nghe cay đắng cổ họng. Kỷ niệm học trò muôn hình
muôn vẻ, nét bút học trò linh tinh lang tang đủ kiểu: người viết dầy; người viết
thưa; người viết nằm; người viết đứng; người viết đàng hoàng chữ nào ra chữ nấy;
người viết cẩu thả như bác sĩ tranh thủ thời gian… Nhìn ảnh những chàng trai cô
gái trong cuốn Lưu bút mái tóc nào cũng đen, da mặt nào cũng lộ nét tươi non,
làm ký ức ông Thanh còm cọm hiện về, nó thiên thần đến độ làm lòng ông da diết.
“Ai cướp đi cái tuổi hoa niên đẹp đẽ của chúng hỡi trời?”. Ông Thanh kêu lên
trong bụng. Ông yêu lắm thời ấy, nhìn từng nét chữ nhạt nhòa trong cuốn Lưu
bút, ông nghe hồn quay lại thời hư ảo xa xưa. Ông mang cuốn Lưu bút đến bàn thờ
đặt sát di ảnh cô em đốt nhang khấn vái cho nó ở cạnh em mình đến muôn mùa phượng
vĩ...
Hình ảnh cô bạn
Tâm thời trinh nữ cũng lại hiện lên trong trí nhớ ông Thanh. Ông nhắm đôi mắt
mòn mỏi để nhớ về, nhớ những cánh phượng hồng phất phơ trong gió trên đỉnh núi
Sam, lòng ông se lại, ông âm thầm: “Nếu ai cho mình một điều ước hiệu quả, mình
sẽ không ước xe hơi, nhà lầu, tiền tài danh vọng mà chỉ ước sao được trẻ lại một
đời!”. Ông mơ được trở về thời vàng son hoa bướm để được yêu mà không bị hoàn cảnh
trái ngang nào cướp mất. Tiếc thay ông có làm gì chăng nữa cũng không thể xóa
nhòa vết tích trần ai thấp thoáng trên vầng trán hẹp và ánh mắt ông đã phai mờ
nhân ảnh.
Ông Thanh mở mắt
thở dài nhìn dòng xe qua lại trên quốc lộ không quá năm giây một chiếc, nhiều
phụ nữ trẻ măng gợi cảm ăn mặc bảnh bao đi bên người nhà, người bạn, người
tình, người chồng... Họ năng động trong các công ty, xí nghiệp, cơ quan, trường
học… Họ cống hiến nhiều mà không lắm lem, họ thiết tha với công việc và biết
quân bình giữa ái tình… Ông Thanh thì thầm trong lòng: “Ngày trước Tâm gội đầu
bằng xà bông đá giết hại da, tắm nước lạch chảy về từ kinh Vĩnh Tế, thế mà sao
tóc nàng có mùi hương diệu kỳ làm chết ngất lòng mình đã gần nửa thế kỷ? Nếu
Tâm ở vào thời kỳ phát triển hôm nay chắc tuyệt vời hơn nữa!” .
*
Hôm nay ông
Thanh đưa đứa cháu ngoại vào lớp liên hoan nghỉ hè, ông ra quán cà-phê cạnh trường
ngồi uống nước chờ rước cháu về, tâm tư bồi hồi ông mải mê quan sát những cành
phượng nở trong sân, để ly cà phê đen bốc hết khói nóng khiến người ngồi gần
nghi ngại hỏi:
- Ông có gì mà dẫn
cháu đi học được vậy?
- Có sao đâu!
(Ông Thanh chợt linh hoạt).
Cô chủ quán nhỏ
tươi tắn:
- Bác không uống,
mãi lo nhìn phượng ly cà-phê lạnh tanh rồi, để con pha ly khác cho nhen, không
tính thêm đâu?
- Thôi cháu,
nóng nguội gì bác cũng quen dùng.
Ông Thanh đưa
tách cà-phê lên miệng uống một hơi rồi tiếp tục nhìn những bông phượng đỏ khoe
sắc…
Từng tóp học
sinh tung tăng nhảy múa dưới bóng phượng, ông nhận ra có những học trò cũng nghịch
như mình ngày nhỏ nhưng cách vui đùa của chúng văn minh hơn. Chúng không bắn
“cu-ly” rồi nẻ đạn thủy tinh làm sưng vù các gu tay; không thẩy “lỗ lạc” bằng đồng
xu cổ thời Pháp thuộc rồi cuối người xuống đất thổi “phù phò” làm dơ cả áo quần
thân thể; không ôm chân co lại lại làm gà trống đá nhau “lạch bạch” cho đến tét
háng, rách quần… Cuộc đời chúng xán lạn rõ nét.
Có hai đứa bé
trai trèo lên cây phượng bên hông trường hái nhánh nhảy xuống cầm đưa lên làm cờ
chạy vòng vo trong sân, vài đứa khác chạy theo giành giựt làm tả tơi những chiếc
bông. Ông Thanh bước sang gọi chúng lại:
- Sao các cháu bẻ
cành phượng?
Một bé gái trắng
trẻo mặt nhăn nhó đồng cảm với ông Thanh:
Cô thầy dặn hoài
không cho mà các bạn ấy lén hái đó ông. Nó đẹp không để nhìn mà giết!
- Phượng là linh
hồn của thời đi học đó cháu! Phải rồi, hái nó là “giết”…
Hai thằng bé hái
phượng đứng lại nghe ông nói với con bé tỏ ra bối rối, hối tiếc, chúng chầm chậm
vào lớp, bỏ lại những cành phượng bên tường rào, ông Thanh nhặt từng cánh hoa bỏ
vào túi áo lầm lũi trở lại quán.
Vào quán ông móc
những cánh phượng ra để lên bàn, vuốt ve như âu yếm người yêu. Trong quán có người
xầm xì:
- Thần kinh có vấn đề!
Ông già đa tình
lãng mạn nghe khó chịu nhưng phớt lờ.
Ông Thanh mơn
man nghe hơi thở mùa hè trở về rồi qua đi như thế đã gần hết một kiếp người.
Ông ôm hai tay vào ngực như ôm một bóng hình thời có hoa mười giờ nở, có bông
bí vàng rẽ lối và phượng hồng trổ sắc. Tan trường ông Thanh đi chầm chậm vào rước
cháu, dường như trong lòng ông cảm nhận có nỗi buồn, mắt ông hoe lên, ông nghe
tình xưa văng vẳng và hồn phượng vĩ miên man đẹp lạ lùng…
THÀNH NAM
_____________
Ông ôm hai tay vào ngực như ôm một bóng hình thời có hoa mười giờ nở, có bông bí vàng rẽ lối và phượng hồng trổ sắc. Tan trường ông Thanh đi chầm chậm vào rước cháu, dường như trong lòng ông cảm nhận có nỗi buồn, mắt ông hoe lên, ông nghe tình xưa văng vẳng và hồn phượng vĩ miên man đẹp lạ lùng… Thật cảm đông !Hoàihuyềnthanh
Trả lờiXóaTác giả chân thành cám ơn chị HHT.
Trả lờiXóa