Sáu mươi tuổi ông Ất mới được kết sui gia với người ta. Con gái ông hăm lăm tuổi, tốt nghiệp đại học Y hẳn hòi, lại đang làm việc ở trạm xá công ty nông lâm súc, nơi mà người ta tốn cả đống tiền cũng chắc gì vào được. Chồng nó, con trai thứ của lão Hạ, hơn con gái ông đúng một tuổi. Nhất gái hơn hai nhì trai hơn một. Đã vậy, thằng Được, con trai thứ lão Hạ, cũng trình độ đại học kinh tế, cũng đẹp trai lồng lộng. Vậy là môn đăng hộ đối quá trời quá đất rồi còn gì.
Ông Ất muốn làm Lễ Vu Quy cho thật lớn. Bò trong chuồng nhà ông tới sáu con. Heo thịt một bầy, ngót nghét hai chục con vô tạ. Gà vịt nhà ông ê hề. Lúa chất trong nhà mấy trăm giạ. Ngặt nỗi có cái chỉ thị gì đó, cấm không được tổ chức hôn lễ, ma chay quá rình rang tốn kém. Nghiệt thấy mụ nội. Bà con nội ngoại của ông cả hàng tổng. Bạn bè của ông cả hàng tổng. Lại còn bạn bè chúng nó. Ở quê lúc nông nhàn, đám cưới cũng xem như hội tết, có ai mất buổi cày buổi gặt nào đâu. Rượu thì ông tự kháp lấy. Gạo nếp bề bề, muốn kháp bao nhiêu không được. Rượu ông kháp ngon bá cháy thần sầu, uống vô tới đâu, lửa chạy vô tới đó, vừa thơm vừa ngọt, râm ran từ trong bụng phát ra ngoài da thịt rần rần; dẫu có say quắt cần câu, say mềm môi mọp gáo, say chìm xuồng tại bến, sáng ngày đầu vẫn nhẹ bâng bâng, tỉnh như chưa có giọt nào trong bụng. Nói có cây cù nèo làm chứng, rượu nếp rặt của ông, khỏi phải ngâm thứ này thứ nọ, đảm bảo ai uống vô vài ly, rậm rật bừng bừng tới nằm ngồi không yên. Mới năm ngoái chớ có lâu lóm gì, ông Bảy Cọt nhà đối diện bên sông, tổ chức gả đứa con gái út, vậy mà người ta kéo tới dự rần ì, đông thấy ngốt; có dễ phải đến cả ngàn người. Tàn đám, nội chuyện bà con đi đái, lội đã muốn nát bấy bá vuông vườn rộng tới mấy công. Đám vậy mới gọi là đám chứ. Tiền mình làm ra, chứ có vay mượn hay tham ô tham ố gì đâu. Như ông nè, đã vào tuổi lão mới gả được đứa con gái, ông chỉ cốt vui với bà con chòm xóm, còn tiền đi đám ở xứ hóc bà tó này, đáng bao nhiêu. Nói có Thiên Lôi chứng giám, ở vùng giáp nước quê ông, có khi người ta còn đi đám thiếu chịu, đi đám đòi thối tiền, cho đúng mức người ta chung tiền mừng con trẻ. Tụi thanh niên ham vui, đi cái bao thơ năm chục ngàn, ngồi khà khê ăn nhậu tối ngày sáng đêm, bữa này qua bữa khác, tiền thua bài tú lơ khơ còn nhiều hơn tiền đi đám mấy lần. Mà lạ. Thanh niên bây giờ, chúng nó ăn nhậu không thiết tới mồi màng; chúng nó hau háu mong có đám ma, đám cưới, đặng hè nhau tòng tam tụ tứ, mặc sức đờn ca hò hét, vui chơi xả láng sức trâu cày. Rước về cho chúng dàn tân nhạc điện tử, có vài anh tóc dài, vài cô môi son, kể như chúng mừng hết lớn. Với lớp trẻ đang hừng hực sức ngựa, đám cưới là đám văn nghệ văn gừng, phải có hò hát thả ga và ăn nhậu ì đùng. Cô dâu chú rễ cũng bị lôi vào nhập cuộc, say nhừ ra bấy bá, đêm tân hôn, làm gì có lễ động phòng hoa chúc.
Ông Ất ngày xưa là kép hát, tối ngày theo ghe bạn lòng vòng thôn ấp, cắm trại, dựng rạp diễn tuồng tích cải lương, đời triền miên là sân khấu và chiếu rượu. Vợ ông sinh thời, cũng là dân ham cải lương tới chết mê chết mệt. Khi gánh hát của ông tấp về làng của bả, bả đeo dính từng đêm, cấm bỏ sót đêm nào, dù đêm đó, suốt cả buổi chiều, trời chuyển mưa sậm sà sậm sịt. Chừng gánh hát nhổ sào qua xứ khác, bả khăn gói xuống ghe, năn nỉ ông bầu tới gãy lưỡi, xin bằng được chân lo cơm nước cho cả đoàn. Cũng nhờ bả máu mê xàng xê cống líu, mà bả với ông dính nhau như keo dính chuột tới tận bây giờ.
Vợ chồng ông Ất lúc thành thân, không hề có miếng giấy hôn thú lận lưng.
Năm ấy gánh hát ế nhệ. Đào kép ăn ròng cháo cò dưa mắm. Một đêm trời nóng nực, ông Ất xách cái khăn rằn, đang đêm mò ra bến cây còng, định bụng xuống tắm tiên cho mát. Tới gần bến nước hoang sơ tịch mịch, ông Ất thốt nhìn thấy có cái gì loa lóa trắng, ngay nơi gốc cây còng cổ thụ. Chựng lại định thần nhìn một lúc, ông Ất phát hiện ra bả đang lau người chuẩn bị thay đồ; cái khăn bông chà chà trên người bả rất chậm. Trời ạ! Co người của bả, đẹp sao mà đẹp hết biết vậy cà. Sáng sao đổ xuống tấm thân người con gái lấm tấm những vệt sáng, hệt như dát kim cương lên da thịt mịn màng. Rạo rực rần rần. Máu huyết trong người ông Ất sôi hết cả lên sùng sục.
Đợi bả thay đồ xong xuôi đâu vào đấy, ông Ất đằng hắng mấy tiếng rồi bước tới.
- Cô Ba cũng nực không ngủ được à?
Cô Ba có hơi giựt mình chút xíu, nhưng rồi cũng kịp trấn tỉnh trả lời.
- Ừa, ở đây mát quá trời anh Tư ơi.
Anh Tư níu lấy câu nói ấy, như níu lấy cái sào cặm ghe.
- Không ngủ được thì ngồi đây hứng gió chút xíu cô Ba! Sao Thần Nông sáng như vầy là năm nay được mùa. Sắp được ăn cơm trắng với chả chìa rồi cô Ba.
Hai người ngồi với nhau bên bờ kinh, ngồi ngay trên rễ cây còng to bằng hai bắp vế cọng lại. Mới đầu còn ngồi cách nhau một khúc mấy gang tay. Về sau, sương khuya sao đó, tự dung họ ngồi sát lại gần nhau lúc nào không biết. Tư Ất là kép hát lâu năm, nổi tiếng với bao nhiêu vai vua chúa, vương tôn công tử, anh hùng thảo khấu, nhưng lúc bấy giờ diễn tuồng dở ẹc. Mới đầu Tư Ất khẽ chạm một bàn tay lên tóc cô Ba. Rồi lâu lắm, bàn tay ấy mới trượt xuống, chạm lên bờ vai. Gió ru khúc xạc xào huyễn hoặc trên đầu họ. Nước lóc bóc hát khúc huyễn hoặc trước mặt họ. Sao trời óng ánh nỗi huyễn hoặc trong mắt họ. Phải lâu lắm, lâu lắm, bàn tay còn lại của Tư Ất mới chạm được một bàn tay của cô Ba mà nắm lấy. Hôi hổi ấm nóng nỗi khát thèm sợ sệt. Khi cô Ba dùng bàn tay nhỏ nhắn còn lại, nắm lấy bàn tay Tư Ất đặt lên ngực mình. Tư Ất thấy run bắn tới từng giọt máu.
- Được… được chút xíu không… cô Ba?
Sự im lặng dồn nén tới ngạt thở, tới kéo sụm hai tấm thân ngún lửa xuống kế gốc cây. Trăng sao bồng bềnh mờ ảo. Đất trời lìm lịm đê mê. Bản giao hưởng hoang lạc của côn trùng tấu rền lên tưởng không bao giờ dừng lại.
Sáng ngày, Tư Ất cùng cô Ba, lựa lúc bạn tuồng tản lạc đi chơi trong xóm, đưa nhau tới gặp ông bầu gánh hát.
Ông bầu đang ngồi vấn thuốc sâu kèn hút phì phà trên sạp ghe, ngước đầu lên nói:
- Tụi bây tính cưới nhau phải không? Tao hiểu. Nhưng lóng rày kẹt quá. Thôi, như vầy. Hai đứa cầm xấp tiền ra chợ mua mấy con vịt, trưa nay cho tụi nó nhậu lết càng, rồi diễn lớp trùng phùng trong “Bên cầu dệt lụa”, cho hai đứa bây vô vai chính.
Đám cưới vợ chồng ông Ất chỉ là đám nhậu. Vậy mà dân tình khi hay tin, rất nhiều người cặp nách chai rượu tới nhậu ké; có người còn đập đầu cá lóc nướng trui đem tới, bẻ cổ gà rang muối đem tới; có người chỉ mớ cá khô khoai, khô cá đuối. Rình rang kéo lết tới khuya. Vui nổ trời nổ đất.
Vợ chồng ông cưới hỏi đơn giản vậy, là bởi thời thế túng cùng nó bắt đành như vậy. Nay con gái ông lớn lên, nhà có của ăn của để, muốn tổ chức đề huề cho ra tuồng ra tích, là cốt để bù trừ cho duyên kiếp vợ chồng ông, là cốt để bà con chòm xóm có dịp quây quần sum họp, vui với nhau một quận thiệt đã đời. Với nữa, vợ chồng ông cũng nhiều nhặn gì. Có mụn con gái, gả xong nó về xứ ruộng của người ta. Thuyền theo lái, gái theo chồng. Xa cách những gần trăm cây số, muốn gặp cũng đâu có dễ gì. Cưới nhau, cốt ở tình nghĩa vợ chồng ăn ở với nhau trăm năm bạc tóc long răng, đám lớn đám nhỏ cũng vậy, đạo nghĩa cang thường mới là điều trọng. Cả đời, vợ chồng ông mới được một lần lo cho con dời gót xuống thuyền hoa, theo về với người ta. Ở độ tuổi sáu mươi, vợ chồng ông còn ki bo dành dụm để làm gì. Tiền bạc, của cải, đâu có thứ nào làm nên hạnh phúc thật sự, nếu không có tình người thấm đậm ở bên trong.
Ông Ất bồi hồi nhớ lại thời còn theo gánh hát.
Ăn ở với nhau suốt mấy năm trời, mà cô Ba không thể nào sanh được cho ông đứa con. Ông buồn bi nhiều, cô Ba còn buồn hơn bi nhiêu. Gánh hát đi tới đâu, cô Ba cũng sắm lễ tìm đến cửa chùa, đình miểu, khẩn cầu van vái, rập đầu xin ơn bề trên ban cho chồng đứa con cầu tự. Nhưng mà thần phật ở xa, lời khẩn cầu của cô Ba cứ lụi tàn theo năm tháng.
Gần cuối năm 1974, chiến sự lan rộng khắp nơi, gánh hát không còn đất diễn. Một hôm, chiếc ghe tàng tàng đang chạy trên sông lớn, thốt có bầy A37 kéo tới ném bom cặp theo mé sông. Ông bầu biểu tài công tấp ghe qua bờ bên kia để tránh bom rơi đạn lạc. Vậy mà không hiểu tại làm sao, vẫn có hai trái bom ném xuống bờ bên ấy. Dứt tiếng bom, Tư Ất linh tính có điều gì không hay nơi bom nổ, bèn một mình chạy tới, coi thử binh tình ra sao.
Trời ạ! Cách hai hố bom toang hoác như hai miệng ao lở lói khoảng vài mươi mét, có một người đàn bà dính miễng bom, nằm vã hai bàn tay xuống mặt đất. Máu đọng thành vũng quanh người bả. Một đứa bé chừng vài tháng tuổi bê bết máu, đang chòi chòi tìm cách rúc đầu tìm vú mẹ. Hai bàn tay nó nhỏ xíu. Hai bàn chân nó nhỏ xíu. Tiếng khóc sữa nghèn nghẹn cũng nhỏ. Tư Ất cúi xuống, bồng xốc đứa bé lên, chạy trở lại chiếc ghe, giao đứa bé cho vợ. Sau đó ông cùng mấy người bạn diễn, lặng lẽ chôn cất người xấu số.
Đứa bé ấy, giờ sắp trở thành vợ thằng Được, con trai lão Hạ ở Gò Công Tây. Đứa bé ấy, giờ sắp giúp ông trở thành sui gia với lão Hạ, người thợ chạm trổ, cẩn xà cừ nổi tiếng truyền đời.
Nhớ dịp tết 1975, những tưởng gánh hát sẽ làm nên ăn ra nhờ ba ngày tết. Vậy mà đi tới đâu, dựng cái rạp lên, chưng băng rôn cờ xí, cũng chỉ thấy đào kép trơ trụi với nhau, ế ẩm tới mốc meo áo quần mũ mão. Không có người xem thì đói. Đói dài dài rã họng.
Bữa nọ, ông bầu kêu vợ chồng Tư Ất tới, nói với hai người:
- Chiến tranh đã vào hồi mức gân rồi nghen mấy đứa. Đánh nhau ì đùng như vầy, còn ai lòng dạ đâu đi coi hát. Qua cũng tận mạng rồi. Có bao nhiêu tiền cũng phải lo lót chỗ này chỗ nọ, đặng tụi nó không tới bắt mấy đứa bây đi quân dịch. Nay qua đành chịu phép, đành chịu tan đàn sãy nghé. Qua có sợi dây hơn lượng vàng, qua biếu tụi bây lận lưng làm vốn, bây đưa nhau lên bờ mà kiếm sống.
Vợ chồng Tư Ất khóc sùi sụt, quỳ lạy ông bầu, rồi bìu ríu ẵm đứa bé tìm về miệt Giáp Nước Tam Bình, lần hồi kiếm sống tới hòa bình, tới tận ngày hôm nay.
Vợ chồng tần tảo làm ăn, tùng tiệm đắp đổi sống qua ngày, chắt mót dành dụm từng đồng từng cắc, nhân dần lên thành đất vườn đất ruộng. Bao nhiêu yêu thương trìu mến, cả hai vợ chồng đều dành hết cho con. Đứa con lớn lên như trái bí trái bầu. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thoắt cái đã thành thiếu nữ, thoắt cái đã thành cô bác sĩ, chuyên khoa một hẳn hòi.
Giờ thì cô đã tới lúc xuống thuyền hoa.
Sau nhiều ngày tính lui tính tới, cân nhắc mọi bề nghĩa tình làng mạc, và cả cái công văn chỉ đạo gì gì đó của nhà nước về cưới hỏi ma chay, cuối cùng đám vu quy cũng phải mời ba trăm người, chứ không thể ít hơn.
Trong tiệc rượu, Tư Ất ưu ái nhất đám trai làng. Đụng đứa nào ông cũng dặn: “Tối nay tụi bây ở lại nhậu với qua, xả giàn từ giờ tới sớm mơi. Coi như tụi bây nhậu thế cho cả làng. Khuya con Tím nó lạy xuất giá xong, qua chơi bứt gân với tụi bây tới lúc đưa dâu cũng được.”
Nhưng đám trai làng cũng chỉ lai rai ăn nhậu hát hò tới gần xế chiều là biến sạch. “Chắc con Thơm bí thơ đoàn xã dặn tụi nó chớ còn ai vô đó”. Tư Ất nghĩ trong đầu. “Cái con học mới lớp mười một mà nghị quyết nào cũng thuộc làu làu”.
Hai giờ khuya, lúc triều theo con trăng thượng tuần bắt đầu dâng, đám rước dâu hối hả rục rịch lên đường.
Một đoàn gần cả chục cái ghe hoa hòe hoa sói rồng rắn trên sông. Dòng sông tịch mịch. Bầu trời cũng tịch mịch. Tới những rặng trâm bầu, những rặng dừa nước cũng tịch mịch. Đêm yên ắng và lành lạnh, phút chốc dội lên tiếng máy tàu dậy cả mặt sông.
Tư Ất ngồi tựa mạn ghe trên cái sạp gỗ có trải chiếu bông, móc bịch thuốc giồng vấn một điếu bự trảng. Lửa thuốc lóe lên, soi rõ gương mặt cô bí thư đoàn xã.
- Thằng Tùng của bây có đây không há Thơm?
Thơm chưa kịp trả lời, Tùng đã nhanh nhảu lên tiếng.
- Có con nè tía. Bộ tía ngồi không buồn chưn buồn tay rồi sao.
Tư Ất rít thêm một hơi thuốc, liệng điếu sâu kèn đang cháy dang dở xuống sông, xoay về hướng thằng Tùng, nói thủng thẳng.
- Qua với mầy làm bậy mất ly nghen! Nhậu lấy ngót, lấy đà, đặng tới nhà trai có dũng khí mà ứng chiến với người ta. Anh sui của tao thuộc tay tổ, nhậu bá cháy mầy ơi!
Lại vẫn tiếng thằng Tùng:
- Hồi nãy lu bu quá, con quên mất là tía dặn đem theo can rượu. Chịu đời rồi tía ơi! Trớt nguớt rồi tía ơi!
Nghe tiếng lụp bụp ở bên kia mạn ghe, dợm nhìn về hướng đó, Tư Ất thấy cô con gái của mình đang cung cả ai tay, đấm như giã gạo lên lưng cô bí thư đoàn xã. (Thôi rồi, lại con Thơm bày trò chớ ai vô đây. Hèn chi hồi trưa nó cứ nhắc ông hoài hủy, bác Tư uống vừa vừa, để lên trển còn tiếp người ta. Cha đời con nhỏ này. Nó cũng biết mình từng đóng vai tướng cướp, nốc rượu từng vò cơ mà).
Ông Ất lại lôi bịch thuốc giồng ra. Vấn thêm một điếu. Xong xuôi, ông moi cái zippo đựng trong túi vải ka ki nhỏ đeo bên hông ra cầm tay. Với ông, cái zippo chánh hiệu USA này là báu vật của tình yêu. Sau cái đêm nồng nàn bên bến cây còng cổ thụ ấy, đêm hôm sau, vào lúc khuya lơ khuya lắc, ông lại lần dò ra bến cây còng, với hy vọng thắc thỏm thiêu đốt rừng rực trong lòng. Bả không ra chắc ông chết. Nhưng kìa, bả đã ra tự hồi nào. Áo soa màu hoa ô môi, quần sa teng đen bóng; lại nghe cả mùi dầu thơm trên tóc. Khi ông ngồi ghé xuống, bả kéo ông lại gần, dúi vào tay ông cái túi vải nhỏ, bên trong có cái zippo mới cáo cạnh, thứ sản xuất riêng cho tụi đua mô tô harley bên Mĩ.
- Em chăm xăng sẵn rồi. Anh bật thử coi.
Cha trời. Thuở nào tới giờ, yêu nhau người ta tặng nhau khăn thêu, rồi tặng nhẫn. Bả chơi độc chiêu hơn người, lựa ngay thứ ông cần nhất, thích nhất mà tặng. Món quà khiến ông nhớ tới thằng bạn diễn ngăm đen. Cứ mỗi lần đứng trước kiếng cạo râu là nó cười tủm tỉm. Hỏi thì nó nhún vai: “hổng thấy cái bàn cạo râu inox, hiệu gillette, con gái bà Năm xóm Bàu tặng tui sao?”. Vậy đấy. Giờ thì cô Ba tặng ông zippo, tặng lửa ân tình cho ông. Vậy là ông cháy. Cháy hết mình với cô Ba thơm như bông chanh, thơm như bông như bưởi.
Thấy ông Ất cứ mãi cầm cái zippo ngắm nghía, con Thơm ngạc nhiên hỏi:
-Bộ gả con Tím cho người ta, tía tiếc lắm sao cà!?
Chừng đó ông Ất mới giựt mình, vừa đánh lửa nghe keng một tiếng thanh giòn, vừa cười lỏn lẻn, hệt như con nít bị bắt quả tang đái mớ trên giường.
- Thơm à, bây thấy hộp quẹt zippo của qua đẹp không nà. Bây hỏi bả thử coi, nó có bao nhiêu kỉ niệm nhen!
Tiếng máy ghe nổ âm âm trên mặt sông.
Trời đêm đen lánh như vầy, lành lạnh như vầy… mà thiếu rượu. Thiếu rượu như vầy, nó cứ làm sao. Thôi được, giờ tao chịu đầu hàng tụi bây, nhưng lên tới trển, rồi tụi bây biết. Chẳng gì tao cũng là Tư Ất, anh sui tao cũng là Lão Hạ. Tụi tao là phó thường dân Nam Bộ, mắc mớ sợ sệt gì không nhậu cho đã đời tới bến. Đưa dâu là đưa duyên nghĩa trăm năm cho tụi nó, không vui, không say, tao chớ kể làm người.
Mấy chiếc ghe đã trờ ra tới vàm sông cái.
Ông Ất biết chắc rằng, phía bên kia, đoàn xe đưa dâu đang chờ sẵn.
HỒ TĨNH TÂM
_______________
Nam bộ chắc chắn không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của Hồ tĩnh Tâm mà sao văn phong của anh
Trả lờiXóaviết về đây hay quá! Một kiểu văn chương rời mà sâu sắc. Mấy năm mới đọc được truyện của anh.