Ông Tám xách cái lờ ra ngoài ruộng bắt cá,
bóng ông trải dài trên con đường nhỏ bên bờ ruộng, kéo dài tận gốc thanh trà
đang hồi thay lá, trổ hoa. Chiếc bóng dài lê thê như chính cuộc đời dài dằng dặc
những chuỗi ngày lận đận, khổ đau của ông.
Năm ấy, thanh trà cũng đang độ ra hoa, trời
miền quê sắp Tết, nắng ít, từng cơn gió từ đâu thổi lại se lạnh thịt da. Ngoài ruộng,
lúa đã được cắt sạch chỉ còn lú nhú những gốc rạ và mấy bông lúa xót lại cuối
mùa. Ông Tám đang loay hoay quét lại bàn thờ của vợ, sửa bộ lư đồng, thằng Ngàn
hớt hơ hớt hải chạy xồng xộc ngoài xóm vào nhà, gọi thất thanh.
- Chú
Tám ơi, chú Tám, có chuyện rồi chú Tám ơi!
Ông Tám tay còn cầm bộ lư đồng, hỏi vọng ra:
- Chuyện
gì mà mày hớt hơ hớt hải vậy Ngàn?
Thằng Ngàn thở gấp như mệt nắng, mặt đỏ ửng,
nó nói vội vã trong hơi thở gấp gáp.
- Không
xong rồi chú Tám ơi, xảy ra chuyện lớn rồi!
- Mà
chuyện gì mày không nói sao tao biết.
Ngàn ngồi xuống, nhọc nhằn thở từng hơi khó
nhọc như người hấp hối.
- Anh
Tình, anh Tình… ảnh giết người ta chết rồi, công an đang giữ ảnh ở ngoài xóm
kia kìa.
- Mày
nói sao? Thằng Tình, con tao, nó giết người…
Ông Tám há mồm, mắt trừng lên, người đứng
trân trân như trời trồng, bộ lư đồng trên tay ông rơi xuống nền nhà, làm thành
một tiếng xoảng thấu tận tim gan của ông già nghèo đã ngoài bảy mươi.
- Không,
không thể… con tao, nó không có giết người. Có chuyện gì uẩn khuất ở đây hả
Ngàn, thằng Tình con tao làm sao lại là kẻ giết người được.
Người đàn ông thanh minh, đôi mắt kèm nhèm,
ép lại, gương mặt người già đầy nếp nhăn đã đỏ ửng lên trong phút chốc.
- Anh
Tình giết chết người ta rồi kìa, xác người ta còn nằm ngoài xóm. Công an họ
đang có mặt ở ngoài đó.
- Không…
không… - Ông Tám bước nhanh từng bước dài ra ngoài đường, chạy ra xóm xem tình
hình, thằng Ngàn chạy theo sau. Ngàn chạy mãi nhưng không đuổi kịp bước chân
ông Tám, trong tình cảnh ấy, sức mạnh và trách nhiệm thiêng liêng của một người
cha lại trỗi dậy mạnh mẽ trong ông.
*
Vào
xóm Lạc Sơn, hỏi ông Tám già chuyên làm nghề cắm câu, bắt rắn thì ai cũng biết.
Người ta biết đến ông không chỉ vì ông là một tay “sát cá”, giỏi thạo nghề rừng.
Người ta biết đến ông còn bởi cuộc đời đau khổ của ông từ cái thuở còn thanh
niên trai tráng trong vùng.
Ngày
đó, Lạc Sơn vừa giải phóng. Ông Tám, gọi là anh Tám cho thân mật, với lại lúc
đó, ông còn trẻ trung trai tráng theo dân làng từ miệt khác đến Lạc Sơn khai
hoang, lập nghiệp. Người ta chia cho anh một miếng đất gần ngã ba sông để làm
ăn. Cuộc đời trai tráng của anh có thể sẽ tẻ nhạt và cô quạnh biết bao nếu
không xảy ra một câu chuyện, dường như là định mệnh mà ông trời đã sắp đặt, an
bày cho chàng thanh niên trẻ khỏe, làm ruộng, làm vườn giỏi, bắt cá, bắt trăn
hay tài tình cái xứ muỗi mòng, đỉa vắt này.
Đó
là vào một ngày tháng tư, chiều mát, anh xuống xuồng, nhổ mái dầm bơi ra ngã ba
sông câu cá để kiếm dăm ba chục ngàn mua lít dầu lửa hay chai nước mắm. Chiều
hôm đó, không biết nước như thế nào, trời ra sao mà câu mãi chẳng có một con cá
nào. Tức mình, anh ngồi câu mãi đến chập hoạng tối. Thấy cá không cắn câu, anh
tặc lưỡi rồi gác cần câu vào xuồng, định bơi về. Nhìn ra mặt sông, chỗ ngã ba tối
mù, chỉ còn loang loáng cái mặt sông trắng ngần trong bóng chiều, anh Tám thấy
một cái gì động đậy trên mặt nước.
Chỗ
ngã ba này rộng mà sâu, hồi xưa tàu giặc thường hay vào đoạn này mà neo đậu, đến
chiều thì nước lên sâu hõm, và cuộn sóng nhè nhẹ. Nhưng cái chỗ động đậy kia là
một quầng nước tròn, hình như có một ai
đó sắp chết đuối ngoài kia. Không một chút do dự, anh bơi ra giữa sông. Trong
bóng tối hư ảo đang dần dần đen quánh lại như mực tàu, anh Tám kịp nhận ra có
người đang cố vùng vẫy trên mặt nước, như đang cố sức lực bám víu lấy một tia
hi vọng nhỏ nhoi là được sống. Anh nhảy xuống sông, nắm lấy tay người đang sắp
chìm xuống lòng nước sâu thẳm. Mái tóc dài ướt sũng đủ cho anh nhận ra đó là một
phụ nữ, một cô gái đang chìm xuống lòng sông vừa sâu, vừa rộng.
Anh ta đưa cô lên xuồng, nhanh chóng bơi chèo vào
bờ. Vác người phụ nữ lên vai cho nước trong ruột, trong miệng cô ta tràn ra
ngoài, một lát sau, người phụ nữ thở được. Đặt cô xuống một gốc cây gần đó, anh
lấy cái ống quẹt ga trong hộp đựng dụng cụ câu cá, đốt một đống lửa nhỏ, gom
rác, lá khô, nhành cây vào cho bén lửa. Người phụ nữ lấy tay, hơ hơ trên đống lửa,
úp vào mặt, vào cổ, vào khuôn ngực teo tóp. Trong ánh sáng của lửa cháy bên ngã
ba sông thanh vắng, anh kịp nhận ra những giọt nước mắt của cô đang lăn dài
trên hai gò má đã hóp lại vì ngâm mình lâu trong nước sông lạnh giá.
- Cô
tỉnh rồi à?
Anh Tám lấy tay đẩy nhánh cây bạch đàn khô
vào giữa đóng lửa.
- Tôi
không sao, cảm ơn anh đã cứu mạng tôi, tôi thiệt không biết lấy gì để báu đáp
ơn cứu mạng của anh - người phụ nữ vừa chùi nước mắt, vừa co ro, đáp lại.
- Xém
chút nữa cô đã chết đuối, nhưng sao cô lại ở giữa sông lúc này?
-
Tôi… tôi bị người ta ném xuống sông.
Người phụ nữ run run.
- Cô
bị người ta ném, nhưng ai lại ném cô?
- Chuyện
là vầy: Tôi người xóm trên, chuyên sống
bằng nghề mò ba khía, nuôi thân. Tôi mồ côi cha mẹ từ năm mười tuổi, một mình
bươn chải kiến sống, được đồng nào sống đồng đó. Chiều hôm trước, tôi mò ba
khía mãi mà chẳng thấy cái hang nào, theo con nước, tôi dọc bờ xong đến chập tối,
thì không may lạc vào nơi có một nhóm người chuẩn bị đi vượt biên. Người ta tóm
được tôi, họ cho rằng tôi là gián điệp. Tôi năn nỉ mãi mà người ta không tin, họ
trói hai tay tôi lại và dùng dây trói tôi vào gốc cây. Dây xiếc hai cườm tay
tôi đau đớn dữ dội, tôi van xin, tôi gào thét, tôi khóc, tôi xin họ tha cho
tôi. Họ tát tôi, một người đàn ông với đôi bàn tay hộ pháp xiết lấy cổ tôi dường
như nghẹt thởm tôi la hét, rồi tôi ngất đi. Họ đưa tôi lên tàu. Trong cơn mê sảng,
tôi nghe họ bàn với nhau, sẽ vứt tôi xuống ngã ba sông để lên đường cho nhẹ
nhàng. Và thế rồi chiều nay, đoạn đi qua ngã ba sông, một người đàn bà lực điền
đã đẩy tôi xuống nước.
Người phụ nữ nghẹn ngào, tay lại huơ huơ lên
ngọn lửa.
- Tội
nghiệp cô. Bây giờ cô đã tỉnh rồi, đã bình an, tất cả cũng nhờ trời phù hộ.
- Anh
à, tôi không tin vào trời phù hộ, chính anh đã cứu lấy tôi ngay khi tôi đang ở
bên bờ vực của cái chết, ơn này tôi mãi không quên.
Anh Tám thở dài.
- Nói
chi chuyện ân nghĩa hả cô. Một người cô độc, nghèo nàn như tôi thì xá chi chuyện
ân với nghĩa.
- Không,
tôi đội ơn anh suốt đời.
Và bàn tay cô gái khẽ chạm vào đôi bàn tay
chai sần của anh ta, anh ngượng và quay vội mặt qua một bên. Đường về xóm trên
xa xôi, cách mấy chặng sông mênh mông không đò, sâu thăm thẳm. Anh Tám đưa cô về
nhà ông, lấy khăn cho cô lau tóc, đi mượn cho cô một bộ quần áo.
- Anh
Tám này.
- Sao
hả cô.
- Anh
sống một mình à?
- Đúng
rồi cô à, nghèo như tôi ai mà thèm lấy cô ơi!
- Nhưng
anh có tình, với lại còn đôi bàn tay mà anh.
- Thôi
cô ơi! Nuôi thân còn chưa nổi, có vợ rồi sao nuôi được người ta, rồi người ta
cũng chê nghèo mà bỏ đi thôi.
Cô gái lắc đầu.
- Sao
anh lại nghĩ vậy? Người ta cũng giỏi, cũng biết làm việc tiếp anh chứ có ở
không ăn bám đâu mà anh lo, sao anh quơ đũa cả nắm… Anh Tám này!
- Sao
cô?
- Nếu
có người muốn sống trọn đời với anh, chia sẻ công việc tiếp anh, anh có đồng ý
không?
- Làm
gì có người đó mà đồng ý hả cô?
- Có
đó anh.
- Ai?
- Anh Tám cười, mắt vẫn nhìn ra xa xa ngoài khoảng sông tù mù, tăm tối.
- Nếu
tôi muốn tiếp anh làm việc để nuôi anh, nuôi tôi, anh có đồng ý không? Anh có
chê tôi không hở anh?
- Tôi…
Tay cô nắm lấy tay anh.
Và họ nên vợ nên chồng từ đó…
*
Anh Tám và cô Hường lấy nhau một năm, sinh
ra đứa con trai đầu lòng, cũng là đứa con duy nhất của đôi vợ chồng son. Đứa
con đầu lòng của họ là Tình. Anh đặt cho nó tên Tình vì anh muốn sau này, nó sẽ
sống sao cho có tình có nghĩa, có trước có sau, được yêu được thương chứ không
thù không ghét.
Cuộc sống tưởng chừng ấm êm khi đứa con trai
ra đời. Nhưng không, số trời không gì thay đổi được, định mệnh trớ trêu đã an
bày. Như một giấc mơ thanh xuân tưởng chừng đổ vỡ sau một đêm. Sinh thằng Tình
xong, vợ anh bị băng huyết. Và chị đã vĩnh viễn xa rời anh và con, vĩnh viễn
không nhìn thấy con chị lớn lên, không thể theo
con đi suốt đường đời lắm nỗi gian truân, khó nhọc.
Chị mất, anh đau đớn vô cùng, ôm con gào
thét trong tuyệt vọng, nước mắt chảy ngược vào tim, như những nhát dao đâm vào
trái tim người đàn ông đau khổ. Chôn cất chị xong, mồ yên mả đẹp, anh ngồi bên
mộ chị mấy ngày trời, gục đầu bên nấm đất còn ướt mem ngoài bờ ruộng, buồn bã,
nước mắt không rơi nhưng cay xé cả ruột gan. Từ đó, một thân một mình nuôi con
khôn lớn, cái cảnh “gà trống nuôi con” ấy làm cho người ta phải xót xa não
nùng.
Ngày
anh Tám đi sên đìa, xúc đất, đào mươn, vét ruộng cho người ta, gửi con cho hàng
xóm, khi thì dẫn nó theo cho ngồi ở một góc nào đó an toàn. Khi thì xé lá chuối
lót cho con ngồi, chặt tàu dừa che nắng cho con và mua dăm ba cái bánh bò bánh
ú cho nó ăn mà không khóc đòi cha. Đêm về hương khói cho chị, cho con ngủ say,
anh lại ra mả chị mà than, mà kể cho chị nghe chuyện cuộc đời và niềm vui nho
nhỏ khi ở bên con trai, giọt máu của anh, báu vật của chị còn xót lại trên thế
gian này. Trong đôi mắt hằn sâu những vết chân chim của một đời lận đận, anh cười…
*
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt đã ba mươi
năm ngày chị mất, anh Tám trẻ trung ngày nào nay đã trở thành một ông già còm
cõi, da nhăn nheo và trổ đầy những đốm đồi mồi, rám nắng bởi sương gió và chai
sần đi bởi một đời cực nhọc mưu sinh cho ông, cho con. Còn thằng Tình ngày nào
nay cũng đã ba mươi tuổi, ba mươi năm trôi qua như một chuỗi thời gian vui buồn,
tủi cực, nhọc nhằn và lận đận của người đàn ông sống cảnh gà trống nuôi con.
Thằng
Tình đã trở thành người đàn ông khỏe mạnh, da ngâm nắng, mãi vẫn không vợ bởi
chẳng ai dám lấy anh. Tình tuy được ông Tám dạy dỗ đàng hoàng nhưng sinh tính
hư hỏng, lúc nhỏ, mới mười bốn mười lăm, chưa mọc lông măng đã tập tành ăn nhậu,
quậy phá xóm làng, chửi bới lung tung. Lớn lên kéo bè kéo phái đi trộm chó bắt
gà của người ta, đêm đêm, đồ đạc người ta không dám bỏ ngoài sân, ngay cả cái
lu đựng nước cũng không dám bỏ ngoài sân. Hễ cái gì lấy được là thằng Tình ăn cắp,
bán lấy tiền đánh bài đánh số, hết tiền thì xin ông Tám, xin không cho thì trộm,
có bữa nó giành hai trăm ngàn ông Tám mới đi mò đát vét mương có được làm ông
ngã đầu va vào cạnh tủ thờ sưng lên một quầng đỏ hỏn. Tội ông Tám…
Vậy đó, đời ông là vậy, đã mấy mùa thanh trà
ra hoa, kết trái là mấy mùa cực nhọc, đầy rẫy khổ đau, không lúc nào vơi.
*
Ông Tám hớt hơ hớt hải, mặt cắt không còn hột
máu.
- Trời
ơi! Con ơi là con, mày làm gì người ta vậy hả con?
Ông Tám quỵ xuống, vừa khóc vừa nói, nước mắt
nước mũi chảy ròng ròng trên khuôn mặt người già đau khổ suốt một đời, đến những
ngày tháng cuối cuộc đời cũng chẳng được yên ổn tấm thân.
- Thằng
con ông nó cãi lộn với thằng Lên, con bà bảy bán hàng bông, nó đâm người ta hai
nhát dao, người ta đưa thằng Lên lên bệnh viện, chắc sống không nổi - một bà
trên xóm nói xỉa xói.
- Còn…
thằng con tôi đâu? Có ai thấy con trai tôi đâu không?
- Công
an người ta giữ con ông rồi, nó giết người mà.
- Trời
ơi là trời - ông Tám gục xuống, tay ôm đầu - Con ơi là con!
Thằng Ngàn chạy lại đỡ ông Tám lên.
- Chú
Tám…
- Dẫn
tao đi kiếm con tao, Tình ơi! Con ơi…
Ông
Tám nắm tay thằng Ngàn lắc mạnh, nước mắt lã chả trên khuôn mặt ngâm đen đầy những
nốt đồi mồi.
- Người
ta đưa nó lên công an huyện rồi, ông kêu xe ôm lên đó đi, coi người ta xử ra
sao - một người đàn ông lên tiếng.
- Giết
người ở tù chung thân là cái chắc - một người đàn bà gầy còm, khuôn mặt nhếch
nhác, lưỡng quyền nhô ra, đứng nói chót chét.
- Trời
ơi, tù với tội, con ơi là con - ông Tám gào thét.
Thằng Ngàn đi kêu ông Hai chạy xe ôm chở ông
Tám lên huyện.
Phiên tòa năm đó, người ta xử con ông tội
chung thân, tù chung thân là may cho thằng Tình rồi.
Tội là tội ông Tám. Một đời nuôi con khôn lớn,
để chưa nhờ vả được gì thì nó đã vào tù. Đúng là phận đời trớ trêu thật. Đời
người như một mùa thanh trà ra hoa, thoáng qua một mùa rồi vụt tắt, chờ mùa
sau, cuộc đời là sự đợi chờ, giống như ông Tám vẫn lặng lẽ chờ một ngày nào đó
con trai ông sẽ được người ta ân xá mà trở về với ông, nhưng ngày đó có lẽ chỉ
là kì tích mà thôi.
Ông
vẫn đợi chờ. Mấy chục năm chứ có ít ỏi gì, nó có giết người, có là tội phạm ở
tù thì nó vẫn là con trai ông với người vợ quá cố, giọt máu duy nhất mà vợ ông
dứt ruột đẻ ra để rồi ra đi vĩnh viễn vì sinh ra đứa con ấy. Nó hư hỏng là lỗi
của ai, có phải ông Tám hay chăng? Ông Tám đã đánh đổi hơn một nửa đời người rồi
kia mà, để giờ đây ông phải trông đợi trong những tháng ngày xế bóng quạnh hiu,
với ruộng vườn thầm lặng, chiếc bóng bơ
vơ buồn bã vẫn lặng lẽ sớm hôm.
*
Gió đồng thổi mạnh, xô rụng mấy bông thanh
trà như mưa, tí tách xuống đất.
Ngoài kia ruộng đồng, ông Tám ngồi bó gối, mắt
nhìn về phương trời xa xôi trong không trung bao la, ông như cánh chim nhỏ
nhoi, cánh chim đã bay cả đời, bay hoài không nghỉ, bay mãi…
Thanh trà mấy mùa ra hoa, cây xanh bao mùa
thay lá, ông Tám đã mấy mùa lận đận lao đao, cả đời người, cái dáng gầy còm của
ông Tám - ngọn nến sắp tàn đang vật vờ ngọn lửa yếu ớt trước làn gió mạnh.
Và thanh trà vẫn lại ra hoa…
HOÀNG KHÁNH DUY
_____________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét