Trong đời sống nghệ thuật, ý kiến nhận xét, đánh giá của các chuyên gia đối với tác phẩm, tác giả là hết sức cần thiết. Đó không chỉ là trao đổi, gợi ý, tiếp thêm động lực cho tác giả, còn là chứng thực về tác phẩm trước công chúng. Nhưng liệu có còn ý nghĩa không khi những lời “khen lấy được” của một vài người nổi tiếng dành cho tác phẩm chưa lấy gì làm xuất sắc đang có xu hướng xuất hiện ngày càng nhiều hơn?
Cuối tháng 5.2016, dư luận và văn đàn Việt Nam xôn xao vì sự kiện một nhà sách bất ngờ mua bản quyền tập thơ Quà cho con với giá 500 triệu đồng. Không những vậy, dù là tác phẩm đầu tay, Quà cho con của NHH đã nhận được nhiều lời “khen có cánh” từ một số nhà thơ, nghệ sĩ tên tuổi, nhà giáo có uy tín lâu năm trong nghề. Thậm chí, một nghệ sĩ còn khẳng định: “đúng là Quà thật, một món quà có ý nghĩa cả cuộc đời! (…) Thật khó có cuốn sách nào đạt được điều tuyệt diệu đến vậy; ai cầm cũng muốn học thuộc lòng”. Tác giả khác thì tuyên bố: Cuốn sách “chắc chắn sẽ là một trong những món quà giá trị nhất mà các bậc phụ huynh dành cho con trẻ (…) Quà cho con chính xác là một trong những công cụ đào tạo kỹ năng sống hiệu quả nhất hiện nay”. Vài tờ báo ngợi ca tác giả là “Bút Tre thời nay” trái ngược hẳn với một thực tế buồn là bản thảo tập thơ từng bị NXB Kim Đồng từ chối… vì các bài văn vần này không đạt! Và nhiều nhà văn, nhà thơ còn thẳng thắn nhận xét đây là một tập thơ thiếu nhi có chất lượng dưới trung bình, nhiều đoạn, nhiều câu chỉ là “ghép vần”, “cưỡng vần” và nghiêm khắc phê phán đây là một hiện tượng được truyền thông, quảng cáo “thổi” lên quá đà.
Câu chuyện này gợi lại buổi ra mắt một cuốn tiểu thuyết được nhiều tờ báo và một số nhà phê bình ngợi ca là “hồi sinh thể loại” văn học trinh thám tại Việt Nam, đồng thời không quên "bật mí" đây là tác phẩm đầu tiên viết về “giới tính thứ tư”. Dường như khi đánh giá như vậy, người đưa ra ý kiến đánh giá không biết rằng trong Cuộc thi sáng tác tiểu thuyết, truyện, ký Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (2012 - 2015), cuốn tiểu thuyết ấy chỉ lọt vào vòng chung khảo, xếp sau nhiều tác phẩm cùng thể loại, đề tài như Bão ngầm, Đơn tuyến, Vực gió, Cô Mặc Sầu,... Từ năm 1986 đến nay, trinh thám tuy không phải là thể loại văn học được nhà văn ưa chuộng nhưng vẫn có nhiều tác phẩm chứ không hề “tuyệt tích” như đánh giá của một nhà phê bình vào hàng có tên tuổi trong văn giới.
Một câu chuyện khác cũng nổi đình nổi đám không kém là hàng trăm người dự buổi ra mắt cuốn phóng sự về một “nhà ngoại cảm” và “hành trình tìm kiếm hàng ngàn hài cốt liệt sĩ”. Tác giả cuốn sách được một trang mạng quảng cáo là “cây viết phóng sự gạo cội (…) với hàng loạt tác phẩm best seller (sách bán chạy nhất) gây chú ý với người đọc”. Và một nhà thơ không tiếc lời ca ngợi đây “là cuốn sách rất hay (…) Một trong những nét đặc sắc nhất của cuốn sách này là sự hấp dẫn, cuốn hút. Hấp dẫn ở sự việc, ở câu chuyện, ở cách thể hiện, khiến chúng ta không thể dừng lại mà phải đọc hết một mạch đến những dòng chữ cuối cùng, đọc cả ở ngoài trang sách, là những điều mà cuốn sách gợi ra. Làm được điều này, đối với người viết, quả thật không dễ. Đó là một cái tài, cũng là một bút lực rất đặc biệt”. Đồng quan điểm này, một nhà văn đã cho rằng “cuốn sách đã hồn nhiên chạm được tới cõi triết học tâm linh”. Chưa rõ trang tin trên lấy số liệu ở đâu để khẳng định những cuốn sách của tác giả này là “best seller”, nhưng điều lạ lùng nhất là không ai đề cập tính chân xác, độ tin cậy, khách quan, khoa học của loạt phóng sự với đề tài tâm linh vốn luôn gây tranh cãi này, nhất là khi đã có một số cơ quan truyền thông tỏ ra nghi ngờ “khả năng thiên bẩm của nhà ngoại cảm”? Không dễ để một tác phẩm báo chí có thể mang trong đó tính văn học, tính triết học, nhất là triết học tâm linh - một khái niệm mà có khi chính người dẫn ra nhằm ca ngợi cuốn sách có lẽ cũng chưa nắm bắt nội hàm là gì? Dẫu thế nào thì để chỉ ra được tính văn học, tính triết học và ca ngợi chúng, việc nhà văn hay nhà thơ nổi tiếng đứng ra khen ngợi cũng khó lòng thay thế thẩm định của chuyên gia trong lĩnh vực văn học, triết học.
Những sự việc vừa kể không phải là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống văn hóa, nghệ thuật ở Việt Nam những năm qua. Dường như trong nhiều trường hợp, việc ca ngợi, tán dương đã trở thành “nguyên tắc ứng xử” chung với một số tác phẩm, tác giả, nhất là trong một số chương trình gameshow truyền hình. Phải chăng sau khi một số giám khảo bị người hâm mộ của thí sinh “ném đá” tơi bời vì nhận xét thẳng thắn, chuyên nghiệp, nhiều người trong số họ rút kinh nghiệm bằng những lời có cánh: “Con không phải đi thi, đây là tiết mục dàn dựng để đi trình diễn quốc tế”; “Thiên hạ đệ nhất trống”; “Tôi nghĩ rằng tôi đang chứng kiến sự thăng hoa và lên ngôi của một người nhạc công, điều mà hiếm khi rơi vào một nhạc công nhạc cụ dân tộc và bạn làm được điều đấy”; “Hãnh diện vì bạn thì tôi không hãnh diện đâu mà tôi tự hào, rất tự hào khi có được bạn trẻ Việt Nam tài năng như thế”; “Em khác với những ca sĩ nam hát nhạc xưa từ trước đến giờ”... Ghi nhận, khuyến khích, động viên, nhất là với tài năng trẻ, là việc cần thiết; vấn đề là ghi nhận, khuyến khích, động viên như thế nào để tài năng trẻ có thêm động lực, nhiệt huyết để tiếp tục trưởng thành, hoàn thiện. Bên cạnh đó, như để chiều thị hiếu của một bộ phận khán giả, nhiều gameshow chỉ mời các danh hài, nghệ sĩ bình dân vào ban giám khảo của cuộc thi tìm kiếm tài năng, năng khiếu. Thiếu năng lực chuyên môn, lại e bị báo chí công kích vì sự hiểu biết, nhiều danh hài đã không ngại ngần đưa ra những nhận xét ba phải, dễ dãi, lạc chủ đề. Với giám khảo như vậy, không có gì ngạc nhiên trong khi các ngôi sao, thần tượng, tài năng nghệ thuật “mọc” lên như nấm nhưng nghệ thuật Việt Nam lại dường như đang phải nhọc nhằn để phát triển.
Trong lĩnh vực điện ảnh, mọi thứ còn trở nên trầm trọng hơn khi bốn năm trở lại đây, hầu hết từ ứng cử viên đến chủ nhân các giải thưởng về điện ảnh đều là tác phẩm thương mại. Các cuộc thi, liên hoan đặt nặng tính giải trí, ít chú ý tới tính nghệ thuật khiến cho nhiều khán giả buộc phải đặt dấu hỏi về năng lực thẩm mỹ của ban giám khảo? Phải chăng trước “cơn bão” phim thị trường, dường như nơi có trách nhiệm với điện ảnh nước nhà đang cố tìm một giải pháp thỏa hiệp, dung hòa, cào bằng giữa yếu tố thương mại, giải trí với giá trị nghệ thuật? Nếu đúng vậy thì đây là một tính toán sai lầm. Vì những cố gắng như thế không khuyến khích, không tạo ra động lực cho sự phát triển hoạt động sáng tạo điện ảnh, khiến một số đạo diễn trẻ, tài năng của điện ảnh Việt Nam rời bỏ sân chơi trong nước, hoặc một số nghệ sĩ được coi là “gạo cội” trong nghệ thuật điện ảnh từ chối làm giám khảo. Ngược lại, một số người nổi tiếng trong làng giải trí cũng không mặn mà khi bất ngờ trúng giải.
Trong nền kinh tế thị trường khắc nghiệt và năng động, tác giả phải đối mặt với nỗi lo “cơm, áo, gạo, tiền”. Dù sáng tác hay hoặc dở, họ vẫn phải sống với các lo toan hằng ngày. Sáng tác và tham gia các hoạt động phục vụ nhu cầu giải trí của một bộ phận khán giả, thính giả hay độc giả cũng là công việc bình thường, đáng trân trọng và cần thiết trong một xã hội mà tính đa dạng, sinh động của nhu cầu thẩm mỹ đang ngày càng tăng lên cùng với sự tăng trưởng của đời sống vật chất. Nhưng, nói như Hoài Thanh thì trong lúc đó người nghệ sĩ, học giả không làm nhiệm vụ của mình nữa mà chỉ làm cái phận sự cầm bút, biểu diễn thông thường, các công việc đó chưa phải sáng tạo tác phẩm để là cống hiến. Để tác phẩm nghệ thuật thành công về mặt thương mại, thường thì tác giả, nghệ sĩ phải tìm cách làm thế nào để tác phẩm mang lại lợi nhuận cao nhất, là cơ sở bảo đảm cuộc sống cho tác giả, nghệ sĩ. Song nếu lợi nhuận trở thành mục đích hàng đầu, chi phối quá trình tác giả làm ra tác phẩm thì đồng nghĩa với việc tác giả tự đẩy mình chạy theo giá trị tầm thường. Bên cạnh đó, lẽ ra các tác giả đi trước, các bạn hữu ứng xử nghiêm túc, đặt sang một bên tình cảm bạn bè, đồng nghiệp để từ đó đưa ra các đánh giá, nhận xét khách quan, sâu sắc, chỉ rõ thành công và hạn chế, qua đó góp ý chân thành với đồng nghiệp; thì đáng buồn là một số nghệ sĩ, tác giả, nhà phê bình lại chọn lối đánh giá theo quan hệ cánh hẩu, tung hô quá đà, thậm chí có trường hợp tâng bốc đến mức lố bịch. Trong suy nghĩ của một số nghệ sĩ và nhà phê bình, họ tin rằng mình đang bảo vệ, đứng về phía đồng nghiệp, nhưng thực tế việc làm của họ lại là yếu tố đẩy tới “khen cho nó chết”? Hành động ấy khiến nhiều bạn trẻ mới chập chững vào lĩnh vực yêu thích có thể nảy sinh suy nghĩ lệch lạc, méo mó về công việc. Nguy hại hơn, nó gián tiếp tầm thường hóa các giá trị thẩm mỹ, đạo đức nghề nghiệp và xã hội, đẩy tác giả và người hâm mộ tới tình trạng ngộ nhận, lầm lẫn. Đồng thời, cũng vô tình tạo ra sự bất công với những tác giả, tác phẩm chân chính. Trên thực tế, đã và đang có một hiện tượng đáng buồn là trong khi hàng trăm trang mạng mải mê tranh cãi về hiện tượng văn học, nghệ thuật bình dân nào đó, thì nhiều buổi ra mắt tác phẩm hay, tác giả có triển vọng lại diễn ra âm thầm, hoặc được đưa tin một cách sơ sài, chiếu lệ.
Một người viết sách theo thị trường từng tâm sự best seller không quan trọng bằng long seller (cuốn sách có giá trị lâu dài), danh hiệu best seller mà cuốn sách của anh nhận được không nói lên ý nghĩa gì ngoài việc thể hiện rằng mình đang được nhiều người yêu mến. Hy vọng đây sẽ là suy nghĩ chung của mọi tác giả. Đôi khi, sự yêu mến của đồng nghiệp, bạn bè, người hâm mộ lại như là “con dao hai lưỡi” đối với các tác giả, tác phẩm nói riêng, với cả nền nghệ thuật nói chung. Do đó, đánh giá khách quan, khen - chê đúng mực, chỉ rõ hay - dở,... với tác phẩm nghệ thuật là tạo cơ hội để nghệ thuật tiếp tục hoàn thiện, phát triển.
VIỆT QUANG
____________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét