…
Tôi kể bạn nghe chuyện ông Thức há. Hôm đó tôi đứng trước cửa quán tạp hóa Mai
Linh. “Mua gì em giai?” anh bán hàng hỏi tôi, anh ta thấy mắt tôi ngước lên kệ
không chờ tôi trả lời tiếp luôn “Mì tôm hả, em giai lấy thứ nào, Đệ nhất mì gia
nhé hay là Hoàng gia chỉ mười tư ngàn một gói thôi?”. Tôi rủa thầm trong đầu
mười bốn ngàn mà chỉ… thôi á, má ơi mấy thứ mì đó con ăn không thấy… ngon! Tôi
buột miệng Hảo… chưa kịp nói tiếp một tiếng hảo nữa, anh bán hàng cướp lời “Hảo
hạng à, rẻ mà ngon, lấy luôn một thùng nghe em giai”. Mồ tổ sư cái ông anh giai
này, còn có mấy chục mà dụ em giai rinh cả thùng mì? Tôi lảng nói dạ sợ ăn
không hết, em lấy ít thôi.
Chiếc
cub 50 - 79 thiệt tệ đạp hoài không nổ, tôi làu bàu trong niệng còn mồ hôi thì
bắt đầu đọng thành giọt trên trán, trên lưng. “Đừng lên ga ngợp xăng xe không
nổ đâu?”. Tôi ngước lên nhìn người tốt bụng, thiệt tình mà nói bây giờ người
tốt bụng hiếm như lá mùa thu, thấy người bị nạn trên đường người ta còn giả bộ
ngó lơ bởi không liên quan tới mình thì xá gì đến chuyện chiếc xe cub cũ xì đạp
hoài không nổ này? Người tốt bụng là một ông vừa bước xuống một chiếc xe tay ga
đắc tiền. Anh cười nhìn tôi, tôi cũng cười nhìn lại, hàm râu được tỉa tót cẩn
thận khiến cho khuôn mặt anh trông có vẻ đỏm dáng và thân thiện. “Để anh coi
cho” không chờ tôi trả lời anh ngồi lên yên xe và đạp. Chiếc xe nổ ngon lành
sau mấy phát đạp, tôi nói cám ơn anh nghen, anh tốt bụng thiệt, tôi không giấu cảm
nghĩ của mình. Anh cười “Em khen anh sao, không phải với ai anh cũng như vậy
đâu?”. Tôi nhướng mày, thấy vậy anh tiếp “Bởi em đi chiếc cub biển số 49, coi
như giúp đồng hương chút vậy mà”. Tôi la lên anh cũng ở trên đó sao, hay quá! Chả
biết hay cái gì nhưng anh ra vẻ vui “Em cũng vậy mà, thấy xe 49 như được gặp
người quen!”.
Tôi
quen anh Thức trong hoàn cảnh như vậy. Một bữa anh Thức rủ tôi đi uống bia, thấy
tôi chần chừ cầm ly bia sủi bọt mà chưa chịu uống anh Thức ngạc nhiên. “Dô đi chớ em?”, tôi cười ngượng nghịu
nói “Em chỉ hớp chút chút thôi nghen?”. Anh Thức càng ngạc nhiên hơn anh nói “Bộ
em sợ say sao, đừng lo có anh đây anh sẽ đưa em về đàng hoàng”. Tôi cười nói em
không sợ say bia đâu, em uống cũng không tệ. Anh Thức hỏi “Vậy can cớ gì em
không uống?”. Tôi lắc đầu em sợ bia say
em, nó đeo bám em hoài thì tiền nào cho đủ? Anh Thức cười khà khà nói “Em cũng
có máu tiếu lâm ghê há, mà này hay là em để chiếc cánh én cho anh?”. Anh đổi đề
tài cái rẹt. Anh dụ hoặc tôi bằng một cái nhìn… màu xanh, màu xanh ấy phản ánh
từ tay anh bởi anh cho tay vào túi áo rút ra mấy tờ năm trăm ngàn đồng. Tôi
lầm, không phải anh Thức dụ tôi bằng số tiền đó. “Đây là lương tháng đầu tiên
của em, theo lệ em phải rửa nhưng hôm nay anh mời em uống bia với anh, ai mời
thì người đó trả”, anh Thức nói vậy. Kiểu này tôi chỉ có nước phải nghe lời anh
Thức thôi, “bia” vô thì lời ra, tôi kể dông dài chuyện chiếc xe cub màu rêu cùng
tôi dong dũi mấy năm cấp ba và nay cũng theo tôi vào đại học, giờ chẳng thấy ai
đi, nó như là một chiếc xe… cổ tích!
Anh Thức cắt ngang “Sao gọi là cổ
tích?”. Thì anh coi, nó mốc thếch, cũ xì và hoang đường giống như bước ra từ
trong truyện vậy! Gật gật đầu anh Thức nói “Ừ cũng đúng, nếu em bán anh mua về
tút lại chỉ để chơi thôi!”. Hình như áy náy sao đó anh nói tiếp “Anh không có ý
gì đâu, chỉ là mê chiếc màu rêu này từ hồi anh còn ở trển”. Tôi biết anh Thức
xuống Sài Gòn sống tròm trèm hai mươi năm, vậy cái hồi mà anh Thức mê xe cub
chắc tôi chưa ra đời. Tôi hỏi sao anh
không mê thứ xe khác mà lại mê loại xe rách này. Anh Thức quở “Em đừng coi thường
nó, hồi đó nó là cả một giấc mơ của bạn bè anh”. Tôi nói dữ vậy sao, cả một
giấc mơ sao? Không dè anh Thức gật đầu “Chớ sao, em sinh sau không biết chớ hồi
đó anh là thanh niên mới lớn đi xe đạp trành mà mơ một ngày cưỡi lên chiếc cánh
én màu rêu chở nàng vi vu để thiên hạ lé mắt luôn”. Mắt anh Thức mơ màng như
chìm vào kỷ niệm, chắc một kỷ niệm đẹp, tôi nghĩ. Quả vậy, có lẽ nhờ men bia
trợ hứng anh Thức kể cho tôi nghe chuyện của anh, anh quên béng chuyện hỏi mua chiếc
xe màu rêu cổ tích của tôi.
Chắc
bạn muốn hỏi tôi giữa tôi và anh Thức chắc là thân lắm anh Thức mới tâm sự đời tôi với tôi chớ gì? Nói cho
ngay đúng ra tôi phải gọi anh Thức là chú mới phải, cách nhau hơn hai mươi tuổi
người Việt ta thường gọi nhau như vậy dù chẳng bà con chi. Cũng tại anh Thức
xưng anh với tôi trước chớ tôi đâu dám hỗn? Mà thôi chuyện đó nhỏ như con thỏ anh
em hay chú cháu gì anh Thức cũng là người ơn của tôi. Của đáng tội hết tiền mà
má chưa kịp gởi, còn tôi thì không dám xin sợ má lo, ăn hết gói mì Hảo hạng
cuối cùng tôi xin được việc làm là đi phát tờ rơi tại các ngã tư. Đừng tưởng đó
là công việc dễ ăn, phải dạn nắng gió, phải chai
mặt với nhiều loại người, phải canh chừng không có trật tự đô thị hay cảnh
sát… và nhất là phải có lương tâm chức
nghiệp. Bạn đừng nghĩ ăn gian người ta bởi có thấy ai kiểm tra đâu, cứ phát
bừa đi, ngắt ra từng xấp mà phát thì chẳng mấy chốc là hết rồi về ngữa tay nhận
tiền công? Ôi cái thói quen ăn gian làm dối khiến nước mình tụt hậu, tôi thường
được nghe mấy bậc cha chú than như vậy. Tôi phải phát từng tờ cho từng người,
trừ những người lắc đầu – dĩ nhiên là vậy, đâu đó trong dòng người qua lại có
một đôi mắt quan sát tôi rồi cuối ngày chấm điểm, lấy tiền của người ta đâu dễ
bạn ơi!
Hôm đó tôi đang phát ngon lành thì
gặp anh Thức, theo quán tính tôi giơ một tờ rơi về phía anh khi anh dừng xe chờ
đèn xanh. Khi kịp nhận ra anh Thức tôi ngớ người: ơ… anh Thức! Chắc anh cười
chào tôi trong chiếc khẩu trang, giọng anh hơi bị nghẹt “Em phát tờ rơi à?”.
Tôi gật và nói làm tạm kiếm cơm anh ơi. Nghĩ sao anh móc túi dí vào tay tôi một
cái cạc rồi nói “Tối nay em ghé nhà anh nhen”. Đèn xanh anh rồ ga, tay trái anh
giơ ra làm một cử chỉ chào. Tôi trở thành người làm công cho anh Thức từ ngày
đó, công việc của tôi là xâu chỉ, căng khung dàn máy thêu Tajima 20 đầu của
xưởng thêu Công Thức. Tôi chuyên làm đêm từ sáu giờ đến khoảng nửa đêm với một
thằng nhỏ chừng mười mấy tuổi. Sau đó ngủ luôn tại chỗ, nghĩa là tôi kiêm bảo
vệ xưởng thêu, khỏi phải thuê nhà…
Dĩ nhiên là tôi không bán
chiếc cub cổ tích, nó đâu phải của tôi. Má tôi cho mượn để đi học chừng nào học
xong phải trả. Đó là chiếc xe kỷ niệm sao đó của má, kỷ vật ai nỡ lòng nào đem
bán? Anh Thức cũng thôi không hỏi mua nữa, mua một chiếc xe để gợi lại kỷ niệm
một thời cũng là người có tấm lòng. Biết vậy nên thỉnh thoảng tôi nói anh Thức
cứ lấy chiếc cánh én của tôi chạy dòng
dòng thử coi có cô nàng nào… mê không? Anh Thức cười suýt tắc thở “Tài ơi
em có tiếu lâm cũng vừa thôi chớ, chiếc Ford Tuner anh đang đi so với thiên hạ
giống như lọ lem so với công chúa còn chưa ăn ai, bây giờ đâu phải ở thập kỷ
tám mươi thế kỷ trước hả Tài?”. Vậy mà anh vẫn chạy chiếc xe màu rêu cổ tích
mỗi khi có chuyện gì đó mà tôi thấy gương mặt anh buồn buồn. Tôi đâu dám lấy
chiếc SH của anh đi học, vô phúc mà bị mất có làm không công mấy năm trời cũng
không trả nổi…
Bạn tưởng tượng ra sao về
đời sống của một người đàn ông chưa vợ? Mà thôi chắc bạn không tưởng tượng nỗi
đâu, để tôi nói luôn. Đàn ông lớn tuổi chưa vợ giống như một con khô mực đang
cong mình trên lửa, bạn cười à, đúng là như vậy tôi nói cấm có sai. Căn nhà ba
lầu của anh Thức, tầng trệt dành cho chiếc máy thêu… và tôi, anh Thức ở hai
tầng trên. Nói cho ngay anh ít ở nhà lắm, đi đâu về lại nhà anh rút ngay vô
phòng ngủ, trong đó bề bộn đủ thứ: quần áo dơ cái nằm trên giường, cái dưới
đất, cơm hộp ăn dỡ, đĩa nhạc, vỏ lon bia… Nhiều bữa đến mười hai giờ trưa anh
còn chưa dậy, nướng đến cháy khét như con mực quá lửa! Mà bạn ăn mực quá lửa
chưa, nói chung cái gì quá lửa cũng mất ngon, anh Thức cũng vậy nhiều tật lắm.
Có tật có tài, người ta thường nói như vậy mà. Tay
ngang không nghề nghiệp dám bỏ quê vào đất Sài Gòn làm ăn, anh Thức hay nói “Vô
Sài Gòn: một xanh cỏ hai đỏ ngực y như thời chiến tranh đi bộ đội vậy”. Anh
Thức thuộc loại “đỏ ngực” sau mười mấy năm may mà không “chết”, anh thường cười
ha hả khi vui miệng kể với tôi như vậy.
Cái chuyện đỏ ngực tôi kể
với bạn sau, tôi muốn nói trước cái chuyện tay không bắt giặc. Tay không là vầy: hai mươi tuổi nhảy xe đò xuống Sài Gòn,
nơi mà chỉ nghe nói chớ chưa tới bao giờ trong túi chỉ có hơn một trăm đồng.
Tiếc thật, tôi không mường tượng được đơn vị “đồng” trong thời điểm đó không
biết bằng mấy ngàn bây giờ. “Ít lắm”, anh Thức bảo vậy. Tôi hỏi anh chớ ngoài
tiền ra anh không có cái gì a? “Cái thằng… anh có giấy tờ đàng hoàng và một tờ
giấy ghi địa chỉ của một ông cậu họ xa”.
Lúc anh Thức ló mặt vô nhà ông cậu, cái đầu tiên anh thấy không phải là ông cậu
mà là giàn máy thêu “nghĩa địa”. Cái nhìn đầu tiên của anh Thức vào cái máy
thêu đang chạy long trời lại dài đến bây giờ, nghĩa là tròn trèm hai mươi năm.
Anh Thức chỉ có nghề thêu, anh không có nghề nào khác và cũng không có ý định
bỏ nghề, mà bỏ nghề sao đặng hả bạn khi mà anh có rất nhiều bạn hàng? Nè cái áo
thun bạn đang mặc có thêu con cá sấu dám xưởng của anh Thức làm ra đó. Hàng Mỹ
à, bạn ơi hàng mua từ Mỹ nhưng coi chừng lại sản xuất tại Việt Nam đó,
có gì lạ đâu mà bạn tròn mắt vậy?
Mà thôi quay về với chủ
đề chính há. Hai mươi tuổi anh Thức xuống Sài Gòn, cái lý do khiến anh bỏ đi
sau mấy lần uống bia với ảnh tôi mới chắp vá lại chớ chưa chắc đã đúng: vì con
gái! Bạn lại trợn mắt nhìn tôi rồi, bạn muốn tôi nói văn vẻ một chút chớ gì? Ừ
thì tại tình yêu vậy. Đúng, tất nhiên giữa trai và gái sáp vô nhau đều dính
dáng tới tình yêu mà, anh Thức cũng không ngoại lệ. Tình yêu của anh và chị người
yêu sau ba năm bị phụ huynh bên gái phát hiện. Ba chị Hoa một hôm mời anh Thức
vào nhà một cách rất lịch sự khi thấy anh Thức lấp ló trước cổng nhà. “Tôi muốn
nói chuyện với cậu một lần”. Phụ huynh vô đề trực khởi khi anh Thức vừa rón rén
ngồi xuống chiếc ghế salon mà trong bụng vừa thắc mắc vừa hy vọng. “Cậu không
có cửa vào nhà này đâu, con gái tôi chỉ gả cho Việt kiều!”. Anh Thức ngồi im
như phổng đá, mặt mày đỏ gay, môi mím, mắt mở to, hơi thở dồn dập… là sau này
anh nhớ lại chớ lúc đó anh không hơi đâu mà chú ý đến mình. “Trời sụp chắc cũng
thê thảm như vậy là cùng”, anh Thức nhấp một ngụm bia và kết luận. “Việt kiều
à, Việt kiều là cái… gì mà ổng ham dữ?”. Nhiều đêm mất ngủ, chữ T cứ hiện diện
thường trực trong đầu anh Thức như một thách đố. Muốn có tiền phải thử thời vận
chớ ở nhà làm vườn với má và anh Hai biết bao giờ mới khá? Đâu có người mẹ nào
muốn xa con, ai cũng lo con khổ, sợ con bơ vơ đất khách quê người dù con lớn
bộn. Khi thấy ý anh Thức đã quyết, má anh cũng phải xiêu lòng, bà dúi vào tay
anh Thức chiếc nhẫn 5 phân vàng y khi anh quay lưng bước ra khỏi nhà. “Đó, em
thấy lòng mẹ cụ thể ra sao chưa?”. Anh Thức trìu mến nhìn chiếc nhẫn quê mùa
anh móc ra từ trong một cái ngăn nhỏ bên trong cái bóp phơi da cá sấu!
Chắc bạn đang thắc mắc
còn chị Hoa ra sao há? Sau buổi gặp anh Thức, tuyên bố của ba chị Hoa được thực
hiện, nghĩa là ông già hàng ngày lấy chiếc DD màu đỏ tươi chở chị đi học và đón
chị về (lúc đó chị Hoa đang học năm thứ ba), ông cười khỉnh khi nhìn thấy anh
Thức đứng dưới bóng giàn hoa giấy màu đỏ bầm đối diện cổng trường đại học với
chiếc xe đạp đòn dông trành trụi. Tôi đoán chắc đó là điểm hẹn của hai người,
anh Thức chờ chị Hoa hàng ngày ở đó, trong khi chờ đợi anh mơ về một chiếc xe
cánh én màu rêu chở nàng vi vu cho thiên hạ lé mắt luôn. Chưa biết có ai lé mắt
không chớ người ta thấy một gã thanh niên hì hụi đạp chiếc xe trành thất thểu ra
về mỗi chiều sau khi chiếc DD màu đỏ vụt qua để lại phía sau một đám bụi mịt mù
là đề tài bàn tán của những câu chuyện sinh viên! Rồi cái gì đến cũng đến, anh
Thức nhận một bức thư cuối cùng của chị Hoa do bạn chị Hoa đưa tận tay. “Anh
yêu dấu, em bị gả chồng rồi, đó là một thằng tây Việt kiều yêu nước…”, bức thư
dài lắm nhưng tới giờ anh Thức chỉ còn nhớ mỗi câu ấy thôi. Hoá ra đó là con
một người bạn của ba chị Hoa, ông ấy đi du học rồi ở luôn bên Pháp, giờ đem con
về kiếm vợ Việt cho khỏi phai dòng máu con Lạc cháu Hồng!
Vết thương lòng của anh
Thức có lẽ không bao giờ lên da non, tôi đoán vậy, bởi trong nhũng lần uống bia
đến ngả nghiêng, là tôi nói anh Thức ấy chớ tôi chỉ uống có một hai lon thì làm
sao say được mà bạn nhìn tôi ghê thế? Hai anh em ngồi trong phòng khách nhà anh
Thức uống gần cạn nửa thùng, anh Thức lảm nhảm “Tại sao như vậy, tại sao như
vậy…?”. Tôi tưởng anh nói về trường hợp của anh và chị Hoa nên ráng làm mặt
nghiêm nói cho ảnh nhớ rằng chỉ bị gả chồng Việt kiều, rằng ba chị Hoa là một người
tàn bạo tiêu diệt thẳng tay tình yêu của con gái, ông ấy cứ làm theo ý của mình…
Tôi còn đơm đặt ra vài điều nữa đại khái lên án con người lạnh như tiền là ông
ba… vợ hụt của anh Thức. Bất ngờ anh Thức la to lên “Thôi, em thì biết gì mà
nói!”. Đúng tôi thì biết gì mà nói thiệt, chẳng qua thấy thương anh Thức quá
nên bênh đồng hương chút thôi. Thấy tôi xụi lơ ngồi cầm lon bia ngắm hoài mà
không uống, hình như anh Thức thấy tồi tội sao đó nên dịu giọng “Anh xin lỗi, ý
anh không phải là đang dằn vặt chuyện đó đâu, cô ấy đi lấy chồng Việt kiều thì
cũng yên bề gia thất rồi, cái anh muốn nói là cái số của anh sao mà giống bị
sao… quả tạ chiếu mạng quá trời!”.
Sao tử vi thì tôi biết
chút ít chớ sao quả tạ tôi chưa nghe bao giờ. Thấy tôi nghệt mặt nhìn, anh Thức
cười “hàng trăm ký đè lên số phận của mình không nặng mới lạ?”. Nụ cười như mếu
của anh Thức khiến tôi thấy anh tồi tội, tôi rút một tờ giấy lau miệng đưa cho anh Thức nói anh lau mép đi, một chút
tương đỏ dính trên mép anh giống như một nút ruồi son! “Em giỡn anh sao, người
ta nói ai có nút ruồi son là điềm lành, trong đời thường gặp hên. Còn đời anh… ừ
cũng gọi là hên khi anh xuống Sài Gòn làm ăn… trừ cái vụ ái tình”. Tôi gặng hỏi
bộ sau chị Hoa anh không yêu ai sao? Dường như có chút bia người ta thường cởi
mở hơn thì phải, anh Thức nói cũng cố quen với mấy người, đều là bạn bè người
thân mai mối nhưng không đến đâu cả. Vì sao à, vì chị Hoa đã lấy mất linh hồn
của anh Thức rồi, bạn có tin không? Đó là tôi đoán ra chớ anh Thức không nói
như vậy, anh chỉ nhìn đâu đâu rồi cầm lon bia lên uống một hơi cạn đáy, anh bóp
dẹp lon bia trong tay như thể bóp cái quả tạ đang đè lên số phận của anh.
Ấy vậy mà tôi đoán trật
lất, sau khi quăng vỏ lon bia vào góc phòng anh Thức mở lời, lần này anh nói
một hơi dài, tôi dỏng tai lên nghe, im lặng nghe, đại khái câu chuyện như vầy:
“Nếu lấy hồ Xuân Hương làm nhuỵ thì Đà Lạt là một đoá hoa có nhiều cánh trải ra
tám hướng, nhà anh ở một điểm tại cánh hoa hướng bắc hồ, nơi đó cách chân ngọn
núi Langbiang một khoảng cách khá xa nhưng dù sao cũng là dưới chân núi Bà như
cách gọi của cư dân hồi đó. Đất Đà Lạt nơi nào mà không mới (khai phá) nhưng
nơi nhà anh ở mới chính là Đất Mới bởi đó là tên khai sinh ra nó. Đất Mới được
khai phá dưới trào ông Diệm để làm vườn, nơi mà trước đó Ty Canh nông trồng thử
nghiệm lúa nước bên cạnh một con suối uốn khúc quanh co.
Nghe ông nội anh kể lại
hồi đó người ta thử nghiệm thất bại bởi khi lúa làm đòng thì đúng vào mùa gió,
gió quất ràn rạt suốt ngày đêm nên bông lúa không thụ phấn được mà thành lúa
lép. Nhưng làm vườn ở đó thì quả là tuyệt vời, đất tương đối bằng và nguồn nước
dồi dào là hai điều kiện mà người làm vườn thèm muốn. Những người có máu làm ăn trong đó có ông nội
anh họp nhau thành lập một Ban đại diện, Ban này lên xã Lat ở Lạc Dương đề nghị
bà con người Lạch nhượng đất của ông bà để lại cho bà con người Kinh. Sau mấy
tháng lên lên xuống xuống văn tự nhượng đất được ký kết, buôn người Lạch xã Lat
sau nhiều lần họp nội bộ đã thuận theo ý già làng là một bà già căng tai tới
đứt – dấu hiệu người sống lâu và được dân làng nghe theo, ký kết văn tự nhượng
đất cho bà con người Kinh…
Đó Đất Mới của anh ra đời năm sáu mươi thế kỷ
trước như vậy. Ông nội anh được chia 30 mét đất bề ngang, còn việc mở từng băng
đất từ dưới suối lên đên đỉnh đồi là việc của nhiều năm trời… Khi đó ba anh là
một chàng trai đầy nhựa sống như cách nói của mấy ông văn sĩ, ông đang đi học
tại trường Trần Hưng Đạo là trường công nam sinh duy nhất thời đó. Năm 68 ba
anh đang học lớp đệ tứ thì nổ ra sự kiện tết Mậu Thân. Xóm Đất Mới của nội anh
không bị ảnh hưởng gì bởi là vùng ven lại là nơi bà con từ nội ô thị xã tản cư
về. Nhà nội anh cho gia đình một ông tư chức, ông này làm kế toán cho hiệu buôn
Lưu Hội Ký là hiệu buôn lớn nhất Đà Lạt thời đó ở nhờ. Gia đình ông Vĩnh ngoài
hai ông bà còn có hai người con trai và một người con gái. Bọn trẻ kết với nhau
như một sự tất nhiên bởi họ xấp xỉ tuổi nhau, trong đó có thêm một chàng trai
con một bà goá hàng xóm với gia đình ông Vĩnh cùng tản cư với gia đình này, bà
ấy cũng được nội anh cho ở một căn phòng nhỏ dùng để chứa đồ lặt vặt.
Chỉ trong vòng hơn một
tháng mà tình cảm phát sinh giữa ba người: hai chàng trai và một cô gái, nói
cho đúng hai chàng trai đều yêu cô gái. Tất nhiên cô gái chỉ đáp lại tình cảm
của một chàng trai, một chàng còn lại đành ngậm ngùi làm người đến sau. Bảy năm
sau chàng trai nhảy núi về xin cưới cô gái như lời hẹn năm nào, một lễ cưới đơn
giản theo phong cách đời sống mới: chỉ có ít bánh kẹo, trà, thuốc điếu và
chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn của Chi đoàn thanh niên góp vui và câu
khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Chàng trai mặc quần áo bộ đội,
còn cô gái cũng vậy chỉ là một bộ bà ba đen tuyệt không có chút phấn sáp nào… nhưng
họ vui đúng như câu khẩu hiệu! Một thời gian ngắn sau chàng trai con bà goá
hàng xóm cũng lập gia đình, từ đó dòng đời đưa đẩy, đời ai nấy sống, đường ai
nấy đi…
Không nói em cũng đoán ra
người chinh phục được cô gái là ba anh, ông Vĩnh là ông ngoại anh còn chàng
trai hàng xóm ngậm ngùi làm kẻ đến sau lại là… ba của người yêu anh. Oái ăm là
vậy, chuyện tình cảm đời trước lại dắt dây đến đời sau! Sao anh rành chuyện của
người lớn à, chắc em muốn hỏi vậy phải không? Sau cú “gặp mặt đầu năm” anh thất
thần mất một thời gian, về đến nhà cứ lầm lì không nói với ai một câu nào, tối
đến anh ngồi ngoài hè nhà cho đến tận nửa đêm mới leo lên bộ phản nằm chèo
queo. Má anh khóc lóc vặn hỏi nhiều đêm liền anh đều cắn răng không hé nửa lời.
Đến khi má đòi sống đòi chết anh mới kể chuyện… tình của mình! Ai dè nghe tên
cô Hoa con gái ông Bảnh má như chết lặng, lúc này đến phiên anh vặn hỏi má, má
mới kể cho anh nghe cặn kẽ nguồn cơn. Đến lúc đó anh mới giật mình nhớ lại rằng
có một buổi chiều chở nàng về, nàng kể chuyện ba nàng dò hỏi gốc tích gia đình
anh, lúc đó anh mừng thầm trong bụng, anh nghĩ rằng phụ huynh đang vun đắp cho
mối tình đôi lứa…”
Tôi kể dở ẹc à, chắc nội
bộ ba người có những lần chạm trán nảy lửa, những hờn ghen đau đớn mê ly… nhưng
bạn ơi mình không là người trong cuộc làm sao mà biết cho hết được? Chuyện chỉ
từng đó thôi cũng đủ làm người ta héo cả cuộc đời tự dặn với lòng mình thôi
đừng lấy vợ, cứ ở vậy làm một gã đàn ông cô độc rồi cũng qua hết một đời. Mà
đời như vậy thì còn gì là lý thú, không lẽ cứ bám vào dĩ vãng hoài sao? Ai đó
nói rằng “dĩ vãng như rêu anh bám vào sẽ trượt”. Vừa khéo lại đúng trong trường
hợp anh Thức, anh Thức sẽ “trượt” nếu không gặp tôi vào một ngày đẹp trời tại
quán tạp hoá Mai Linh! Bạn lại tròn mắt ngạc nhiên rồi, chắc bạn đang thắc mắc
sao lại có “tôi” vào đó chớ gì? Đúng vậy nếu không có tôi đời anh Thức sẽ hoài
là một gã đàn ông cô độc!
Vì sao à, tôi nói ngay để
bạn khỏi nóng ruột nghen: con Hoa Lan em gái tôi và ông Thức bị tiếng sét ái
tình đánh trúng! Số là con nhỏ học xong cấp ba, thấy má khổ quá vì nuôi tôi học
đại học, nó rắp tâm học một cái nghề sau khi tốt nghiệp, cái nghề nó chọn là
nghề tạo mẫu tóc mà hồi trước hay gọi là uốn tóc. Hôm đó nó tới thăm tôi ở
xưởng thêu Công Thức, trúng ngay ông Thức lại có mặt ở nhà (điều này hy hữu
lắm, khi có tôi rồi ông ấy như chim xổ lồng tha hồ bay nhảy), hai anh ả gặp
nhau nói gì đó tôi không rõ lắm bởi phải đi mua nước cho em gái uống. Tới chừng
bưng ba ly nước về trước cửa tôi chỉ nghe ông Thức nói một câu “hôm nay gặp em
chắc anh phải lấy vợ thôi”. Hôm nay tôi đưa bạn về…
…
Tôi chỉ nghe lóm tới đó
bởi chàng thanh niên kể tới đó thì ngừng ngang bởi xe đã đến Phi Nôm, nơi anh và cô bạn gái xuống xe. Chiếc
xe của nhà xe Thành Bưởi lại tiếp tục chạy về Đà Lạt, câu chuyện bị bỏ lỡ nửa
chừng, trong đầu tôi xuất hiện nhiều câu hỏi… mà chẳng biết hỏi ai.
“Một chuyện ghi được trên
xe Thành Bưởi” tôi chép lại nội dung câu chuyện của đôi bạn trẻ và đặt tên như vậy.
Nhưng sau đó chợt nhớ đến đoạn hai người đàn ông quen nhau ở một quán tạp hoá,
họ là đồng hương, đồng hương 49 nên lấy đó làm tựa cho rồi chớ còn gì nữa?.
VÕ ANH CƯƠNG
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét