Lâu lắm rồi thành phố không có nắng. Hoặc là màn nắng
mỏng manh ấy không đủ để san sẻ tới tận cùng các ngõ ngách giăng mắc trong
thành phố. Thế nên không ít phụ nữ than da dẻ dạo này nhợt nhạt quá trông không
có chút sức sống nào. Tóc dạo này xác xơ vì gội đầu xong toàn phải dùng máy
sấy. Mắt dạo này mờ mỏi vì ở trong nhà phải bật điện suốt ngày. Chân dạo này tê
nhức vì lạnh quá nên lười vận động.
Họ là những người sống trong khoảng không
chật hẹp, thiếu ánh sáng và thèm khát từng giọt nắng trong suốt mùa đông dài
miên man xứ Bắc. Đàn ông thì ra ngoài mưu sinh, còn lại toàn đàn bà quanh quẩn
bếp núc, chăm sóc con cái nên có khi cả ngày chẳng đi đâu đến nơi có nắng. Tối
nằm bên chồng con họ thở dài ước chi có nắng mà phơi lại chiếu chăn. Thời tiết
lạnh, độ ẩm cao đến tâm hồn còn lo mốc chứ đừng nói đến vật dụng trong nhà. Túm
bồ kết treo ở góc nhà đã mọt, xâu vỏ bưởi để lâu đã cứng còng queo, phải có
nắng mới đun nước bồ kết gội đầu chứ nếu không chỉ qua loa bằng dầu gội. Thương
nhất là các cụ già đã sức tàn lực kiệt. Cứ mùa đông là không dám ra ngoài, chân
tay run lẩy bẩy, hôm nào cũng hỏi cháu con “đã có nắng chưa bay ơi?”. Bởi đã
quá thèm được rời căn phòng tối om ra ngồi ngoài cửa nhà sưởi nắng. Và bởi vì
có nắng ấm nghĩa là mùa xuân đã về rồi.
Tôi rời thành phố, bỏ lại sau lưng những ước ao bình
dị của bao người đàn bà khát nắng. Nơi tôi đến là mảnh đất nắng gió chan hòa,
thứ năng lượng từ đất trời căng đầy trong mắt môi mỗi người đang sống. Không có
nhà cao tầng, chỉ có bến cảng lớn nhỏ, vài cụm công nghiệp và những con đường
dài hun hút. Nắng như được thể ngập tràn ở khắp nơi tinh khôi và tươi mới. Những
ngôi nhà được vén gọn rèm, mở bung từng cánh cửa đón nắng. Đứng trên tầm cao có
thể ngắm nhìn những dây phơi rực rỡ sắc màu của chăn chiếu, váy khăn. Trẻ con
nghịch ướt áo quần chạy ào ra giữa sân giang tay hong nắng. Đàn bà mang củ cải
muối ra phơi, thêm vại dưa cà, mẹt cá khô, nia ớt đỏ. Lại có nhà mang củi ra bổ
sẵn, phơi thêm vài nắng là cất đi chờ tết nấu bánh chưng. Ngoài chợ nắng vàng
nhảy nhót trên sạp cá, trên mớ rau xanh, trên lưng áo mỏng manh và cái nghiêng
nón chào khách rất duyên của một cô thôn nữ. Thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp một dáng
ngồi ngửa cổ, thích thú đón ánh nắng ấm áp chảy tràn trên khuôn mặt. Bỗng thấy
thương những người đàn bà trong thành phố của mình.
Nắng ở miền đất lạ khiến tôi nhớ đến mùa nắng trong kí
ức. Khi tôi tốt nghiệp đại học, rời tỉnh nhà lơ ngơ làm công dân thành phố bằng
tập hồ sơ xin việc và xấp tiền lẻ mẹ dúi trong ba lô quần áo. Đón tôi ở bến xe
ngột ngạt người dưng là vạt nắng vàng quen thuộc. Nắng ở nơi nào cũng gần gũi
như màu nắng trên lưng áo mẹ, trên mái tóc của cha. Thế nên lúc ngồi chờ xe bus
trong cơn đói cồn cào tôi thấy mình không hề đơn lẻ. Cũng bình yên giống như
đang ngồi dưới hiên nắng quê nhà. Rồi nắng dần ít hiện hữu hơn trong đời sống
của tôi. Hay là vì lòng người không còn đủ bình yên để hội ngộ từng mùa nắng
nữa. Đôi lúc tôi trách phố đã nuốt chửng mình cùng bao phận người trong cung lòng chật hẹp và lộn xộn.
Để đến một lúc nào đó nhen lên trong lòng nhau một nỗi xót xa về những khuôn mặt
người ngồi ngóng nắng mùa xuân để kịp hong khô tóc…
VŨ THỊ HUYỀN TRANG
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét