Mỗi năm Tết đến xuân về, lòng tôi lại dâng lên một nỗi
nhớ về quê, về mái nhà xưa, những ngày giáp tết mọi người xúm xít bên bà gói
bánh tét để cúng tổ tiên, biếu họ hàng
xóm giềng.
Trong các thức món cúng Tết, bánh tét là món không thể
thiếu của người dân Nam Bộ. Nhà giàu, hay đông con cháu thì gói cả mấy chục
đòn. Những gia đình nghèo khó hoặc ít thành viên, cũng gói được sáu, bảy đòn để
trước cúng giao thừa, sau cả nhà ngồi ăn bánh, uống trà, chuyện trò râm ran ,vui
vầy xuân mới.
Cứ khoảng giữa tháng mười hai, mọi nhà chuẩn bị lo
liệu dần những vật trưng bày, những món bánh mức, trà nước, hoa quả cho ba ngày
Tết. Nhà của bà tôi cũng vậy,mọi người lo quét trước dọn sau, bưng bê sắp sửa,
lau chùi, sơn phết. Vì cha tôi là con một, lại làm việc xa, nên khi tôi được
nghỉ Tết thì cha mẹ cho về quê nội trước. Ở nhà nội, có các cô cậu họ đến giúp
gọt bí hoặc nạo dừa để làm mức,riêng tôi lon ton theo chân nội lượm tàu lá
chuối khi ông nội chặt xuống, mang chất đống chỗ bà ngồi rọc lá, chẻ cọng .
Nội nói:
- Gói bánh Tét canh làm sao còn vài ba đòn tới cúng
mồng bảy hạ nêu mà không bị thiu.
Lúc nhỏ, cái gì tôi cũng cũng muốn hỏi:
- Làm sao canh được hả nội?
- Ờ, thì đợi tới ngày hai mươi chín hãy gói bánh, để trước
kịp cúng ba mươi, sau thì cúng mồng bảy
- Cúng ba mươi là gì vậy nội?
- Cúng ba mươi là rước ông bà, con à. Cúng xong rồi ăn
tết từ từ dẫn tới ngày hạ nêu là vừa.
Nội vừa trả lời tôi, vừa xếp lại lá đã phơi dẻo, rồi
tỉ mỉ tước cọng chuối để làm dây buộc đòn bánh. Nội nói chuẩn bị sẵn như vầy để
khi bắt tay vào việc là có đủ nguyên vật liệu, chứ quên một món, dù là dây cột
bánh cũng phải đi xin chòm xóm, có dư thì người ta cho, bằng như không dư thì
tìm đâu ra lúc đang gói bánh.
Từ sáng sớm ngày hai mươi chín, bà tôi giã
lá dứa lấy nước trộn vào thau nếp đã vo sạch, cô Hoà làm
nhân ngọt, nhân lạt, có một số nhân để một miếng thịt ba rọi dài bằng đòn nhân
bánh. Bà gói bánh nhanh lắm, dì Hoà buộc dây không xuể, chú
Quang và ông nội phải vào buộc dây tiếp. Đòn bánh ông buộc rất đều và mướt, còn
đòn bánh chú Quang buộc đầu lớn đầu nhỏ, vì chú buộc mà không lăn, không vỗ
thân đòn bánh. Tôi cũng mê mải với mớ lá, với nhúm nếp nhỏ mà bà cho để gói
bánh Tét, khi buộc được đòn bánh, dù là nuộc thưa nuộc dầy, “đầu voi đuôi
chuột” nhưng cũng reo vui mừng rỡ, nhe hai hàm răng sữa ra cười khoe.
Bọn trẻ nít như chúng tôi ưa táy máy chân
tay, nhìn thấy ai làm gì là nhào vô làm theo.
Tuổi thơ ngày ấy, tôi thích nhất là được
bà đổ chút nếp vào lớp lá, cho lên miếng nhân, để gói đòn bánh tét nhỏ, rồi tự
tay buộc dây chuối cho đòn bánh của mình. Cùng ông bà bỏ bánh vào cái nồi thật
to đặt ở sân nhà. Cả nhà ngồi quanh bếp
lửa, giơ đôi bàn tay ra hơ ấm dưới trời buốt lạnh, nghe tiếng tí tách bập bùng
từ đốm than hồng, và lời kể chuyện của bà, tiếng nói cười rôm rả của người
thân, thật là vui vẻ hạnh phúc biết bao. Thích nhất là lúc ngồi canh nồi được
bà cho ăn thử bánh. Khi bánh thật chín, bà dùng dây tét bánh ra, kính cẩn đặt
lên bàn thờ cúng tổ tiên, sau đó mọi
người cùng quây quần bên nhau thưởng thức món bánh truyền thống ngày tết Việt,
món bánh độc đáo và hấp dẫn vô cùng. Ngày xuân, có người dùng bánh tét thay
cơm. Cầm đôi đũa gắp khoanh bánh tét chấm vào chén thịt kho, rồi nhâm nhi vài
miếng dưa kiệu chua chua ngọt ngọt nồng nàn. Cái chất vị dẻo thơm đậm đà, giòn
tan nơi mặt lưỡi, thật là tuyệt. Hương vị bánh tét ngày Tết đem lại sự đầm ấm
bên gia đình, mâm cúng ông bà, bữa cơm sum vầy luôn nhớ trong lòng người xa xứ.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét