Trăng
được xem như biểu tượng của nghệ thuật, của cái đẹp không dễ tìm cầu trong cuộc
sống. Tương truyền đời nhà Đường ở Trung Quốc, có một thi nhân đã nhảy xuống
dòng sông khuya để bắt lấy mảnh trăng lung linh đáy nước. Thi nhân ấy chính là
Lý Bạch, người có nhiều cống hiến nhất cho nghệ thuật Đường thi, người đã mang
văn chương từ vùng đất cằn cỗi với sự bó buộc của Đường luật đến một mảnh đất mới
với đầy sự sáng tạo, trí tuệ, cùng cái ngông rất nghệ sĩ mà những thi nhân cùng
thời hiếm ai sánh kịp.
Lý Bạch, cái tên mà bao giờ ta cũng nghe nhắc
đến mỗi khi ta tìm hiểu nền văn học cổ điển Trung Quốc, đặc biệt là văn học đời
Đường. Lý Bạch từng khai phá mảnh đất văn chương ra sao? Lý Bạch đã có những ước
vọng ra sao? Cái chết của Lý Bạch đã triết lý đến thế nào mà khiến cho những ai
tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của ông, đều bồi hồi xúc động... Cái chết của vị
thi nhân ấy mang lại cho người nghệ sĩ nguồn cảm hứng cùng ấn tượng sâu đậm nhất
về ánh trăng thuần chất nghệ thuật, ấn tượng về sự chán nản nhân sinh thế sự của
một kiếp người tài hoa để tìm về nơi vĩnh hằng của cái đẹp, dù cái đẹp đó xa vời
và ảo tưởng như một mảnh trăng.
Tâm hồn của Lý Bạch mang khát vọng của một
con hoành hải ngư, ông nuôi chí lớn: Chém
sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng Lạc Thủy. Nhưng cuộc đời khiến ông
không khỏi thất vọng: “Tôi vốn không bỏ đời mà đời bỏ tôi.” là tiếng nói đầy
đau khổ của một con người mong mỏi đem tài năng để giúp đời mà không được toại
nguyện, là nỗi chán chường trước những tiêu cực trong xã hội không cách gì thay
đổi. Với một tâm hồn yêu tự do, ông buông bỏ danh vọng phù phiếm, ông thoát ly
những nguyên tắc bó buộc của Nho giáo để đưa sáng tác của mình đạt đến nghệ thuật
chân chính.
Những lúc không ai có thể thấu nỗi niềm của
Lý Bạch, những khi phải ngậm ngùi chia tay những người bạn tri kỉ của mình, ông
lại tìm đến trăng và rượu. Đó là hai người bạn không bao giờ bỏ ông, luôn bên
ông bất cứ khi nào ông cần đến. Ánh trăng đổ xuống vằng vặc như chan hoà cùng cảm
xúc và suy tư của ông trong bài thơ Tĩnh
dạ tứ:
Sàng tiền khán nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Theo bản dịch của Trần Trọng Kim:
Đầu giường chợt thấy bóng trăng,
Mập mờ trên đất, ngỡ rằng sương sa.
Ngửng đầu trông vẻ gương nga,
Cúi đầu luống những nhớ nhà băn khoăn.
Đối trước ánh trăng, lòng người sẽ trở về
nguyên thuỷ của mọi cảm xúc. Lý Bạch nhìn ngây ngất ánh trăng như thể nhìn sâu vào
nội tâm của mình, ông thấy hình bóng quê hương ở đó. Nhà thơ ngỡ ánh trăng là
sương, Đầu giường chợt thấy bóng trăng, /
Mập mờ trên đất, ngỡ rằng sương sa., hình ảnh thật nhẹ nhàng. Ánh trăng toả
xuống êm dịu như những hạt sương trong trẻo rơi trên đất. Ngôn từ giản dị, không
cầu kì, không đẽo gọt mà chỉ cốt gợi hình gợi ảnh, gợi những nỗi niềm sâu lắng
trong tâm thức.
Nếu trăng trong Tĩnh dạ tứ là ánh trăng êm đềm và nhẹ nhàng, thì trăng trong Nguyệt hạ độc chước là nét táo bạo của hồn
thơ Lý Bạch:
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thời đồng giao hoan,
Túy hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.
Theo bản dịch của Trần Trọng Kim:
Trong hoa rượu ngọt một bầu,
Một mình chuốc chén có đâu bạn bè.
Mời trăng cất chén kè nhè,
Thân ta, bóng ấy, trăng kia, ba người.
Trăng thì tiếp rượu không nguôi,
Bóng ta theo mãi không rời thân ta.
Bạn cùng trăng bóng vẩn vơ,
Vui chơi khuây khỏa để chờ ngày xuân.
Ta ca trăng cũng băn khoăn,
Khi ta nhảy múa, bóng lăn lộn hoài.
Cùng nhau khi tỉnh vui cười,
Say rồi nghiêng ngửa, mọi nơi rạc rời.
Vô tình giao kết chơi bời,
Hẹn nhau ở chỗ xa khơi cõi trời.
Trăng ở đây lại trở thành ông bạn đối ẩm, thưởng rượu cùng với nhà thơ. Bất
mãn với đời, Lý Bạch trở về bầu bạn với trăng và thậm chí bầu bạn với cả cái
bóng của mình: Thân
ta, bóng ấy, trăng kia, ba người.. Bài thơ Nguyệt hạ độc chước không chỉ đậm chất
ngông của người nghệ sĩ mà nó còn ẩn chứa một tâm trạng u uất, tâm trạng của một
con người đã quá chán ngán thế sự, chỉ muốn đắm vào cơn say bất tận của lòng
mình hay của màn đêm: Say rồi nghiêng ngửa
mọi nơi rạc rời.. Hình ảnh siêu thực, duy ngã: Khi ta nhảy múa, bóng lăn lộn hoài., như thể có chất men len lỏi
trong đó rồi kéo tuột những vần thơ ra khỏi mọi lề lối cảm xúc của thơ ca phong
kiến. Những câu thơ thoát ra từ nỗi đau
thời cuộc, từ sự tan vỡ của lý tưởng. Những câu thơ trực chỉ nội tâm đến mức
dường như không có sự hiện diện của thể giới xung quanh: Vô tình giao kết chơi bời,/ Hẹn
nhau ở chỗ xa khơi cõi trời. Cảnh vật, trời đất
chung quanh nhà thơ lúc này như những mặt cắt không rõ ràng bởi tâm tư ông đang
biến động rất hối hả.
Nỗi buồn đã biến mọi thứ xung quanh ông trở
thành những hình thù rời rạc, chỉ còn cõi lòng ông, cái bóng của ông, và vầng
trăng là hiển hiện rõ nhất.
Cơn say của Lý Bạch khiến trời đất điên đảo
hay chính nỗi buồn sâu sắc của Lý Bạch mới khiến đất trời đảo điên? Chính nỗi
buồn của ông: buồn thế sự, buồn cuộc đời đã quên ông, buồn cho cái tài không được
dùng vào những mục đích lý tưởng để giúp đời giúp nước.
Tư tưởng của Lý Bạch vượt thoát cùng trăng
sao với niềm xúc cảm mãnh liệt:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Bản dịch của Hoàng Giáp Tôn:
Nắng chiếu Lò Hương khói tía bay,
Thác treo xa ngắm tưởng sông bày.
Từ ba ngàn thước dòng lao xuống,
Ngỡ Ngân Hà rớt chín tầng mây!
Tứ thơ mạnh như thác nước ầm ào, Vọng Lư sơn bộc bố là bản tứ tuyệt xuất
sắc, đầy sáng tạo với một khí phách tuyệt vời lộ rõ trong ngôn từ điêu luyện. Thác treo xa ngắm tưởng sông bày., thác
nước như một dòng sông không phải trôi xuôi lửng lờ nơi đồng bằng mà đó là dòng
sông đuợc treo thẳng đứng trên núi Lư,
cuồn cuộn chảy xuống như mảnh lụa khổng lồ trắng xoá. Nghệ thuật so sánh cũng rất
bậc thầy: Từ ba ngàn thước dòng lao xuống,
/ Ngỡ Ngân Hà rớt chín tầng mây!. Trăng sao chẳng lúc nào rời Lý Bạch, nhà
thơ như thể đến từ thế giới của trăng sao nên thơ ông thường mang bóng dáng của
trăng sao. Kể cả khi ngắm thác núi Lư, tâm hồn ông cũng không vắng bóng những
vì tinh tú, dòng thác như dải Ngân Hà rớt xuống dương gian từ chín tầng mây. Vọng Lư sơn bộc bố thật sự là bài đường
thi độc đáo, hiện đại. Vũ trụ như thu cả vào bức thuỷ mặc với cảnh sắc Lư sơn bộc bố mà vẫn chẳng mất đi chút
nào vẻ to lớn, vĩ đại.
Hồn thơ Lý Bạch như thổi vào cảnh sắc thiên
nhiên sự kỳ vĩ, sự sống động như có hồn, rất lạ lùng và rất chơi vơi!
Có thể bạn cho rằng thơ ca phong kiến là
dòng thơ thuộc khuynh hướng cổ điển, tư duy và cảm xúc thơ gò bó trong luật lệ,
dòng thơ chỉ dành cho quan lại quý tộc và vua chúa ngâm vịnh. Nếu bạn là một độc
giả chúa ghét sự khuôn khổ của thơ cổ điển, thì bạn hãy đến với thơ ca Lý Bạch!
Ắt hẳn bạn sẽ không còn ác cảm với dòng thơ cổ điển, bạn sẽ thấy rằng mọi sự
phân chia khuynh hướng thi ca cũng chỉ mang tính tương đối. Dĩ nhiên, thơ Lý Bạch
vẫn tuân thủ theo những nguyên tắc của Đường thi nhưng ta có thể thấy trong đó
là hơi thở của khuynh hướng lãng mạn và siêu thực, những vần thơ tuân thủ chặt
chẽ Đường luật ấy lại như sôi nổi cùng men rượu và ánh trăng.
Không chỉ là những câu thơ bay bổng, khí
phách, say mê; thi sĩ Lý Bạch cũng có những bài Đường thi nhẹ nhàng. Lòng nhân
đạo, tình yêu cuộc sống là những tình cảm mà tâm hồn ông vẫn luôn hướng về. Điển
hình cho tính nhân đạo trong thơ Lý Bạch là bài thơ Xuân tứ, một bài thơ đồng cảm cùng tâm sự u uất của người vợ trẻ xa
chồng.
thảo như bích ty,
tang đê lục chi.
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?
Bản dịch của Hài Đà:
Cỏ Yên mềm tơ biếc
Dâu Tần trĩu cành xanh
Chàng nhớ quê da diết
Thiếp đứt ruột không đành
Gió Xuân nào quen biết
Khe khẽ động rung mành.
Những hình ảnh thiên nhiên bình dị gợi bao niềm thương nỗi nhớ, phản ánh
tâm hồn trong trẻo, mềm dịu của người phụ nữ: Cỏ Yên mầm tơ biếc/ Dâu Tần trĩu cành xanh. Câu thơ mượn ngọn cỏ,
cành dâu để thể hiện một nỗi buồn man mác. Người vợ buồn khi phải xa chồng nhưng
nỗi niềm ấy cũng chỉ đành thở than với gió, Thiếp
đứt ruột không đành, câu thơ thể hiện nỗi nhớ thương không thể tỏ cùng ai
và lòng chung thủy son sắt. Người thiếu phụ cô đơn nơi trướng phủ rèm che, nghe
mành khẽ động, nàng tưởng chồng trở về, rồi nàng nhận ra bức mành rung động chỉ
là vì một ngọn gió xuân, nàng hờn trách: Gió
xuân nào quen biết/ Khe khẽ động rung mành, chất thơ đầy nữ tính và nhẹ
nhàng.
Niềm thương mến, trân trọng bạn hữu cũng được Lý Bạch bày tỏ trong thơ
ca, điển hình là bài thất ngôn tứ tuyệt Hoàng
Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Bản dịch của Ngô Tất Tố:
Bạn
từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
Tứ thơ hiện lên với không gian ảo mờ sương khói, giọng thơ sâu lắng. Bài
thơ thể hiện niềm trân trọng tình bạn cao đẹp, sự tiếc nuối khi phải lìa xa bạn
bè tri kỉ: Bạn từ lầu Hạc lên đường,/ Giữa
mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng., Mạnh Hạo Nhiên là người bạn tâm giao
đồng điệu với nhà thơ về tâm hồn nay đã theo cánh buồm khuất bóng vào sương
khói mông lung. Không gian mênh mông và mờ nhạt trong cảnh tiễn biệt gợi biết
bao tình cảm quyến luyến, niềm thương bạn đầy vơi và cảm giác trống trải như
vụt mất điều gì quan trọng trong cuộc sống. Câu thơ Bóng buồm đã khuất bầu không mang ý nghĩa tình người dù thắm thiết
đến mấy rồi cũng trôi theo dòng đời, bầu
không không chỉ là cảnh sông hiu hắt mà nó còn tượng trưng cho vũ trụ bao
la chứa những quy luật khó hiểu.
Từ đó, Lý Bạch chỉ còn lại một mình một bóng với vần thơ và chén rượu. Sự
ly biệt người bạn tâm giao là một nỗi buồn sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi
buồn như hòa quyện, trải rộng theo không gian và thời gian. Dường như, cảnh vật
trong thơ mang cả cái hồn của vũ trụ chứ không hề nhỏ nhoi chút nào. Vũ trụ quá
rộng lớn hay là số phận con người khó lường, Lý Bạch cảm thấy bất lực vì ông không
tài nào nắm bắt được nó: Trông theo chỉ
thấy dòng sông bên trời.
Nét đặc trưng của thơ ca cổ điển là tả cảnh ngụ tình, nhưng Lý Bạch có
nhiều bài thơ không quá chú trọng miêu tả thiên nhiên. Ông thường chỉ tập trung
vào một vài sự vật gợi nhiều tâm tư tình cảm nhất như vầng trăng, chén rượu,
dải Ngân Hà… hay đơn giản chỉ là cái bóng của ông ở bài thơ Nguyệt hạ độc chước để ông giải bày tâm
tình và đắm chìm trong bản ngã đầy tự do. Có thể nói, thơ Lý Bạch mang một
khuynh hướng mới hoàn toàn khác hẳn một số tính chất đặc thù của thơ Đường. Lý
Bạch là một thi sĩ đi trước thời đại khi ông làm bật lên được chất lãng mạn,
chiều sâu trong ngôn từ của thơ ông là chiều sâu của tâm trạng Muốn say hoài, chẳng muốn tỉnh chi!
(trích Thương tiến tửu).
Lời thơ cổ điển bao giờ cũng hàm súc, hướng
đến cái đẹp tuyệt đối về lý tưởng, mang vẻ thầm kín, đạo mạo. Riêng thơ Lý Bạch,
cái đẹp trong đó thật phi thường, tình cảm thật mãnh liệt thoát ra khỏi cuộc đời
bạc bẽo và trống rỗng! Tư tưởng của ông là tư tưởng của con người trong một thời
đại mới mẻ hơn, sống để làm chủ cuộc sống của chính mình.
Cõi trời đất trong thơ cổ điển thường bao
quát vạn vật và tuân theo những quy luật miêu tả gần – xa. Riêng ở thơ Lý Bạch,
điểm nhìn của ông chỉ tập trung vào một hoặc hai sự vật quanh ông, làm phát
sinh những tư tưởng độc đáo. Chính điều này đã làm cho hình ảnh trong thơ ông nổi
bật hơn hình ảnh trong các bài thơ đương thời. Cõi trời đất trong thơ Lý Bạch lắm
lúc ngả nghiêng và cuồng quay trong cơn say của ông, là cõi mộng tan vỡ vào sự
phũ phàng của cuộc đời, vào bất tận của vũ trụ. Theo Kim cổ kỳ quan của Phan Hồng Trung xuất bản năm 1997: Lý
Bạch thấy mỗi sợi tóc mình biến thành một vành trăng ngời ngợi sáng... trong
phút mê ly, Lý Bạch nhảy xuống dòng sông, ôm mảnh trăng rung rinh tan vỡ... để
trở về nơi cảnh tiên bồng..., và cuối cùng thi sĩ Lý Bạch – ngôi
sao lạc lỏng giữa nhân gian cũng trở về với vầng trăng yêu dấu! Vầng trăng mới
là cội nguồn của ông.
Tôi tự
hỏi nếu mảnh trăng ấy cũng tan vỡ, vậy cái gì sẽ còn lại theo ông vào cõi thiên
thu? Có lẽ, ông chết nhưng tâm hồn ông vẫn sống, bất diệt trong những lý tưởng
cao đẹp của bao thế hệ con người. Khi ta khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp,
say mê những nẻo đường của nghệ thuật, sống nhân đạo với một tâm hồn cao cả!...
Lý Bạch sẽ luôn ngự trị trong trái tim của mỗi con người chúng ta, ủng hộ ta dấn
bước trên mọi nẻo đường của nghệ thuật và nhân sinh. Cõi mộng của Lý Bạch có thể
tan vỡ giữa thế cuộc đau thương, nhưng Lý Bạch mãi sống trong thi hồn của nhân
loại.
NGUYỄN KHÁNH TUYẾT VY
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét