 |
Nhà thơ Đình Đăng |
Nhà thơ Đình
Đăng tên thật Trương Đình Đăng, còn có
bút danh Đăng Sơn, Phương Ngữ. Ông sinh
năm 1933 quê ở Triệu Phong Quảng Trị. Hiện trú tại Đà Nẵng. Đình Đăng là một thi hữu huynh trưởng. Huynh trưởng
về hai phương diện.
Nhà thơ đang ở độ tuổi bát tuần, phong cách sống và phong
cách thơ được văn thi hữu mến phục và văn thi đàn mến mộ nhiều. Thơ của ông suy nghiệm
sâu xa về tình yêu và triết lý sống, có
cái nhìn tỉnh táo và công bình để phán
xét những sự kiện xảy ra giữa đời thường. Tài sản thơ của ông rất đồ sộ nhưng
phần công bố trên báo chí thì ít, vì bản tính nhà thơ thích nhàn hạ tiêu dao,
vui với mình với đời bằng vần thơ thanh nghị hơn là xông xáo trên diễn đàn vì
cái danh vọng. Để viết tường tận về thơ Đình Đăng thì không thể nghiên cứu ngắn
ngày và viết trên một vài trang giấy mà được. Châu Thạch tôi vốn là cây bút
nghiệp dư và viết cảm nhận thơ tùy hứng, nên trong khuôn khổ bài viết nầy, chỉ xin đề cập đến ba bài thơ chữ ngắn của ông. Chữ
ngắn nghĩa là câu thơ ít chữ và bài thơ
cũng ngắn.
Bài thơ thứ nhất:
TÌM
Thế gian
ai khóc
ai cười
Ta ngồi đây
với quanh đời
nhiễu nhương.
Từ em
lạc giữa vô thường
Ta như cỏ dại
gió sương
võ vàng.
Đâu
trần tục
đâu thiên đàng
Biết tìm đâu
giữa dối gian
cõi người?
Đọc “Tìm” ta thấy
nhà thơ không chỉ cô đơn vì vắng em mà còn mang một nỗi cô đơn lớn hơn nữa, đó
là nỗi cô đơn giữa “cõi người”. Bài thơ dễ dàng cho ta hiểu cái ý của nó nhưng
khó khăn cho ta đồng cảm với niềm đau tình yêu và niềm đau nhân thế ở một tâm hồn
lớn đang sống giữa hiện thực. Những ai thấy đồng cảm, lòng xót xa vì tiếng thơ
nầy thì người đó cũng mang chung với tác giả một tâm sự buồn tình và buồn đời. Tình
trong “Tìm” của tác giả Đình Đăng không chỉ là thứ tình nam nữ hay vợ chồng đơn
thuần mà còn một thứ tình đồng điệu của hai người tri kỷ sống giữa cuộc
đời biến động. Bởi thế, khi nhà thơ ngồi
nhìn “ai khóc/ ai cười/Ta ngồi đây/với quanh đời/nhiễu nhương” thì ông không nhớ
đến bạn bè, đồng đội hay đồng chí mà ông lại nhớ người phối ngẫu của mình trước
hết. Tôi biết “em” ở đây là người vợ thân yêu của nhà thơ. Bởi vì ai gần gủi với
tác giả đều cảm phục một giai thoại tình yêu tuyệt vời của vợ chồng ông. Bài
thơ cho ta thấy rõ ràng tác giả là người bất đắc chí. Nhà thơ đã ngồi đó, nhìn biến động quanh mình một cách vô vọng, đến
nỗi dễ dàng nhầm lẩn vì không biết “Đâu trần tục/ đâu thiên đàng/ Biết tìm đâu/
giữa dối gian/ cõi người?” “Cõi người” đánh dấu hỏi có nghĩa là “có phải cõi
người hay không?”, hay đó là cõi ma, cõi quỹ. Đọc bài thơ “Tìm” ta thấy ở đó một
tiếng thở dài. Tiếng thở dài đó không phải chỉ của một người nhớ vợ, không phải
của chỉ một nhà thơ tức cảnh sinh tình, mà đó là một tiếng thở dài của một bậc
trí giả với hai nỗi đau chất chứa trong lòng, nỗi đau cô đơn vì người vợ thân
yêu, người tri kỷ duy nhất trong đời đã mất, và nỗi đau lạc lõng trước bao
nhiêu biến động dối dang và nghịch lý xảy ra quanh ông. Đọc “Tìm” của Đình Đăng
không hiểu vì sao, tự nhiên tôi nhớ đến
cụ Phan Bội Châu thả đò một mình trên sông Hương của xứ Huế đất thần kinh!!!
Bài
thơ thứ hai:
TƠ CHIỀU
Cố gỡ
sao lòng mãi rối tơ
Bờ mê
bến giác
trắng sương mờ
Nằm nghe
âm vọng ngoài vô tận
Lắng tiếng ru đời
đắng giọt thơ!
Đọc bài “Tơ Chiều” ta hiểu thêm tâm trạng
của nhà thơ và ta dễ dàng sâu nhiệm thêm với những gì chất chứa trong bài thơ
“Tìm” ở trên. “Tơ chiều” là nỗi niềm rối ren chất chứa trong lòng tác giả,
nhưng lòng tác giả và vũ trụ đồng nhất thể nên tơ chiều ấy cũng trùm lên cả vũ
trụ. Bài thơ có nhưng từ “Bờ mê”, “bến giác” nhưng chắc chắn không phải là một
bài thơ Thiền hay bài thơ về triết lý nhà Phật. Bài thơ cũng không phải để bày tỏ sự rối ren trong cuộc
sống giao tiếp xã hội. Đây là sự bâng khuâng của một kiếp con tằm giăng tơ, của
một tâm hồn thi sĩ mà Thượng Đế ban cho ân tứ ấy để làm thơ cho đời. Không Tử
nói “Ngũ thập tri thiên mệnh” nghĩa là người có tuổi từ 50 trở lên thì có thể
biết được đạo lý, nhận ra giá trị của cuộc sống và phân biệt được đúng, sai
trong cuộc sống nhở tri được cái luật của Tạo Hóa. Nhà thơ Đình Đăng đã quá
tuổi tri thiên mệnh trên ba mươi năm, không lý gì ông còn rối ren về đạo lý, về
sự đúng sự sai ở đời. Vậy mà ông “Cố gỡ/ Sao lòng mãi rối tơ”. Vậy mà ông không
phân biệt được “Bờ mê/ bến giác” để thấy nó như trong “trăng sương mờ’ nghĩa là
như một bầu trời trong ảo giác . Ông gọi
sự rối rối đó là “Tơ chiều”. Vậy “Tơ chiều” là gì? không gì khác là câu hỏi to
tướng về cái xấu diễn ra trước mắt. Nhà thơ Đình Đăng thấy được cái xấu, phân
biệt được cái xấu đó nhưng không hiẻu vì sao khi nhìn ra xã hội, ông thấy con
người không từ bỏ nó mà đam mê như một con thiêu thân lao vào lửa. Ở tuổi về
chiều nhà thơ càng sâu nhiệm thêm về đạo làm Người được viết bằng chữ hoa, thì
ông lại ngao ngán trước sự lọc lừa, đổi trắng thay đen, vô đạo lý mà ông thấy
được. Nhà thơ “Nằm nghe/ Âm vọng ngoài vô tận” nghĩa là nghe được tiếng của
thiên nhiên, của vũ trụ, của Thượng Đế hay đúng ra là am hiểu tiếng của chân lý
dội trong linh hồn mình. Và khi nghe được tiếng chân lý đó, nhà thơ đem nó so
sánh với đời thì đành cay đắng mà thốt kêu lên “lắng tiếng ru đời/ đắng giọt
thơ!
Bài thơ tuy ngắn nhưng chất chứa một nan đề
của loài người, nó là một suy tư nằm ngoài các con đường mòn của các triết lý
các tôn giáo, nêu lên một sự thật dối gian, ngụy tạo, lẩn lộn giữa chính và tà,
giữa sa-tan và thần thánh trong kiếp nhân sinh, làm cho thơ vốn là nguồn chân
lý trong sáng vô biên cũng phải đắng cay.
Bài thơ thứ ba:
TRƯỚC BIỂN
Nắng rang
cát bỏng trưa hè
Dã tràng xe
dã tràng xe...
sóng dồi
Gẫm mình
rồi cũng thế thôi
Bao năm xe cát
để rồi cát chôn .
Xác thân
lại trả càn khôn
Bao la vũ trụ
rong hồn phiêu du!
Chuyện Dã Tràng xe cát là chuyện cổ tích ngụ ngôn, mục
đích để răn dạy người đời không làm những việc vô ích, không có kết quả gì. Tác
giả đứng trước biển bao la, nhìn con Dã Tràng xe cát mà liên nghĩ đến thân phận
con người cũng phù phiếm như con Dã Tràng kia, gian lao khổ cực bao năm rồi
cũng ra đi, tan vào trong cõi hư không. Đây là một suy tư yếm thế về thân phận
con người mà không ai tránh được khi đứng trước sự bao la của vũ trụ thấy mình
nhỏ bé và ngắn ngủi đời người. Nhà thơ Đình Đăng tuổi đã cao, suy nghiệm của
ông về lẽ thường tình mà thế gian đã thấy có chiều hướng tích cực hơn trong sự
yếm thế đó. Nhà thơ cho rằng xác thân ta sẽ trả lại càn khôn nghĩa là trở về
với bụi đất vô tri nhưng linh hồn thì phiêu du trong cõi bao la vũ trụ. Quan
niệm này gần với Lão giáo, lắng đọng linh hồn con người vào cõi thanh tịnh thật
của nó, hòa nhập với thiên nhiên , vô vi cùng trời đất, không cần phải tu tập,
cầu nguyện tôn vinh ai vì tất cả đó chỉ là động mà thôi, mà động là đi ngược
lại lẽ huyền vi có sẳn, tồn tại giữa thiên nhiên.
Đọc ba bài thơ ngắn của Đình Đăng, tâm hồn ta không
thấy ủy mị bởi niềm đau “khổ đế”, không thấy chán đời bởi nghịch cảnh xảy ra
trong cuộc thế, mà cũng không cảm thấy cần phải có một niềm tin tôn giáo cho
đời. Thơ ông chất chứa một sự suy tư của chính ông, trình bày những rối ren
thực tế trong cõi người, đặt vào tâm hồn mỗi người đọc thơ sự cảm nhận những
phủ phàng không phải không lý giải được trước cuộc đời, trước xã hôi thực tại
và nhìn nó, chấp nhận sự rối ren của nó,than van thì có nhưng oán trách thì
không . Thơ ấy không làm cho tâm hồn ta rung động trong cảm thức khoái lạc
nhưng làm cho ta cảm thấy mình lớn hơn, cao hơn và sâu sắc hơn trong cuộc làm
Người.
Châu Thạch
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét