Thi Pháp Là Gì?
Trong ebook Toàn Cảnh Thi Pháp Học của GS/TS
Trần Đình Sử có hai định nghĩa thi pháp học đáng chú ý:
1/ V. Girmunski: “Thi pháp học là
khoa học nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật.”
Định nghĩa này quá rộng nhắm vào nhiệm vụ của
thi pháp học. (1)
2/ Viacheslav Ivanov: “Thi pháp học là khoa học
về cấu tạo của tác phẩm văn
học và hệ thống các phương
tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó. (1)
Định nghĩa của Viacheslav Ivanov tuy có cụ thể
hơn một tý nhưng cũng nói đến “tác phẩm văn học” nghĩa là vùng phủ sóng cũng
vượt quá phạm vi của bài viết này.
3/ Thi pháp nếu hiểu theo nghĩa hẹp (“thi” là thi ca chứ không
phải văn học) là phương pháp, quy tắc làm thơ; cũng có thể hiểu là luật thơ.
Bàn đến thi pháp là bàn đến hình thức của bài thơ - cách sắp xếp
con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài
thơ.
Đối với thơ, theo tôi, thi pháp có thể định nghĩa như sau:
Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng
vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ
thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.
Các phương tiện thẩm mỹ thường thấy trong thơ là vần, nhịp điệu,
số chữ trong câu, số câu trong bài, các biện pháp tu từ …
Ảnh Hưởng Của Thi Pháp Đối Với Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ
1/ Số chữ trong câu: Ảnh hưởng đến nhịp điệu của bài thơ.
Số chữ trong câu cố định sẽ dẫn đến nhịp điệu đều đặn, nhàm
chán.
Số chữ trong câu thay đổi sẽ tạo nhịp điệu khác lạ, giảm bớt cảm
giác nhàm chán khi đọc thơ, nhất là bài thơ dài. Biên độ thay đổi càng rộng
nhịp điệu càng khác lạ, đọc thơ càng có cảm giác thích thú, khoan khoái. Hơn
nữa, việc thay đổi số chữ trong câu chứng tỏ tác giả đã phần nào thoát khỏi
những ràng buộc của thể thơ, biểu lộ phong thái ung dung, thoải mái - rất cần
thiết để nhen nhúm hồn thơ.
2/ Số câu trong bài: Thoải mái, tùy tiện nhưng đừng quá ngắn.
Xin trích lời một anh bạn trong buổi nhậu (đã thay đổi chút ít
cho phù hợp với khung cảnh bài viết):
“Bài thơ ngắn quá
(4 câu hoặc ít hơn) không đủ để tác giả bày tỏ tâm trạng của mình, không đủ để
cảm xúc lớn mạnh tạo thành cao trào. Nếu thành công, nó như một nụ hôn phớt
trên má, tạo ra chút xao động trong lòng người đọc nhạy cảm. Nếu thất bại, nó
cho cảm giác bực mình như làm tình với anh chàng ‘sậu tinh’, chưa đi đến chợ đã
hết tiền, mệt người mà chẳng nên cơm cháo gì”.
3/ Vần:
Với thi sĩ, vần giúp nối kết những ý tưởng, sự kiện, những mảnh
tâm tình thành một xâu chuỗi khiến bài thơ liền mạch, nhất khí. Trong bài thơ
có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng đoạn 4 câu) tứ thơ và cảm xúc
chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn sóng trước. Khi thi sĩ
đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi nhanh đó giúp tứ thơ
tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện, tạo cơ hội cho hồn
thơ hình thành.
Với độc giả, vần là thuốc dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông
điệp của bài thơ theo dòng cảm xúc trôi nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn”
ấy độc giả “cảm” được tâm tình của thi sĩ một cách dễ dàng hơn, (có thể) không
phải trải qua tiến trình suy nghĩ, tránh được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can
thiệp của lý trí để cuối cùng có thể bắt gặp hồn thơ (nếu có). (2)
Nhưng vần là con dao hai lưỡi:
a/
Quá ngọt: Sẽ có hội chứng nhàm chán vần, đọc nghe rất ngán - nhất là khi tứ thơ
không thẳng hướng tới đích mà cứ cà kê dê ngỗng chạy lòng vòng.
b/
Quá nhạt hoặc không vần: Trúc trắc, khó đọc, dòng chảy của tứ thơ không trơn,
những khoảng ngắn ngừng nghỉ sẽ là cơ hội để lý trí xuất hiện.
4/ Dòng chảy của tứ thơ
a/
Đứt đoạn, phân mảnh: Tứ thơ phân tán, mỗi đọan là một ý nhỏ, cảm xúc chưa kịp
tích tụ đã tan, cực khó có hồn thơ
b/
Nhất khí liền mạch: Tứ thơ chảy thành dòng, ý này nối kết với ý kia cho đến hết
bài. Nếu thi sĩ cao hứng và thế trận bài thơ hợp lý sẽ có cơ hội có cảm xúc
tầng 3, có cơ hội tạo được cao trào, có cơ hội có hồn thơ.
c/
Tốc độ của dòng chảy càng nhanh, hơi thơ càng mạnh, cảm xúc càng dạt dào.
5/ Cảm xúc: Mức độ cảm xúc có được là kết quả của sự phối hợp
các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ mà giới phê bình gọi là thi pháp.
a/
Cảm xúc tầng 1: Cảm giác khoan khoái, sung sướng khi gặp được một chữ “đắt”,
một cụm từ sang, đẹp, một biện pháp tu từ độc đáo hoặc một câu thơ hay. (Kỹ
thuật cá nhân của cầu thủ)
b/
Cảm xúc tầng 2: Cảm giác sung sướng khi thấy sự kết nối các câu, các ý, các
đoạn thành một thế trận liền lạc, hợp lý, hiệu quả để đưa tứ thơ đến “bến đỗ”.
(Đấu pháp toàn đội)
c/
Cảm xúc tầng 3: Cảm giác ngây ngất khi “bắt” được cái hơi nóng cảm xúc, không
phải từ các con chữ của bài thơ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ. Cái hơi nóng
cảm xúc đó được “thổi” vào bài thơ do tâm thái cao hứng, nổi đìên, lạc thần trí
của tác giả. Đây là loại cảm xúc cho độc giả cái cảm giá sảng khoái nhất, “đã”
nhất. Nếu cảm xúc tầng 3 mạnh đến mức chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước lên
đến đỉnh điểm, bài thơ có cao trào, hồn thơ xuất hiện. (Trận đấu có hồn) Lúc đó
“cái tôi văn hóa” của tác giả đã trốn mất để “cái tôi đích thực” lộ diện, lời
thơ là những tiếng lòng chân thật từ một Con Người (viết hoa). Bài thơ đã đạt
được phần thưởng cao quý nhất - bước vào “Bến Bờ Thi Ca”.
Khuyết Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”
THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ
Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.
Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya.
Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.
Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.
Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?
1/ Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu
đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm
thế, phong thái không được tự do.
2/ Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần,
không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần
rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả
yêu vận (vần lưng):
Chữ “nắng” (câu 2 đoạn 1) vần với “lắng” (câu 1 đoạn 1)
Chữ “nối” (câu 3 đoạn 3) vần với “thổi” (câu 4 đoạn 3)
Chữ “tóc” (câu 1 đoạn 4) vần với “áp” (câu 2 đoạn 4)
Chữ “ngẩn” (câu 1 đoạn 5) vần với “nắng” (câu 2 đoạn 5)
Và điệp vận (vần “ắng”) không cần thiết: Câu 1, câu 3 đoạn 1 và
câu 1, câu 3 đoạn 2
Nhìn cách gieo vần của bài thơ mà thấy “thương” cho thái độ phục
tùng của tác giả đối với quy luật gieo vần. Một lần nữa lại biểu hiện phong
thái e dè lệ thuộc.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn
tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt
đoạn, phân tán, không có dòng chảy.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không
chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình
thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế
trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng
này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.
Bình thơ mà không bàn đến thi pháp nên Châu Thạch đã bỏ qua
nhiều khuyết điểm và đã nâng giá trị của bài thơ lên một cách bất công. Tệ hại
hơn, anh đã ngợi khen quá lố một bài thơ có những điểm yếu cơ bản, thổi vào hồn
tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn.
Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”
Tôi hoàn toàn không quen biết anh Hà Nhữ Uyên và bài thơ Thềm
Xưa Em Đợi Người Về tôi chỉ mới “gặp” lần đầu khi viết bài này. Bài thơ của anh
những nét đẹp về ngôn ngữ, hình tượng, ý tứ thì nhà phê bình Châu Thạch đã phân
tích đầy đủ, có phần ưu ái. Tôi chỉ bàn đến những cái “sót” của anh Châu Thạch
khi anh bình thơ mà phớt lờ thi pháp – “cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu
và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài thơ”.
Mỗi nhà phê bình đều có “ý đồ” riêng trong bài viết của mình.
Trước tiên, bài thơ của anh Hà Nhữ Uyên rất tình cờ lọt vào tầm ngắm của tôi.
Đọc kỹ, thấy nó là một thí dụ minh họa rất hợp với mục tiêu của bài viết. Tôi
biết bị một cặp mắt nhìn soi mói vào khuyết điểm bài thơ của mình tác giả nào
cũng có cảm giác khó chịu, nhưng xin anh Hà Nhữ Uyên hiểu và thông cảm cho. Tôi
chọn bài của anh vì tiện đường đi tìm cái đẹp của Thi Ca chứ không vì ác cảm cá
nhân.
Thuở còn ở Trung Học, khi được hỏi “Làm thơ nên chọn thể thơ
nào?”, thầy giáo dậy Việt Văn có lần nói với tôi “Cái đó tùy tạng, tùy sở
thích của mỗi người; trên trang thơ của mình thi sĩ được toàn quyền tự do chọn
lựa”. Sau nhiều năm tìm vui
với thơ, tôi lại được các bạn trẻ hỏi cái câu hỏi tôi đã hỏi thầy giáo tôi ngày
xưa. Và vì dòng đời thay đổi, cách nhìn nhận thi ca cũng đổi thay; câu trả lời
của tôi cũng khác câu trả lời của ông thầy mà tôi hết lòng yêu mến. “Hãy chọn thể thơ thông thoáng,
không phân mảnh đứt đoạn, để tứ thơ và cảm xúc của mình có thể chảy thành dòng,
sóng sau dồn sóng trước, có cơ hội tạo cao trào để hồn thơ xuất hiện.” Rất mong anh Hà Nhữ Uyên coi câu trả
lời ấy như một đề nghị chân tình.
Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Quê Nghèo”:
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
Bài này nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa "Quê
Nghèo – Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng". Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng
chọn cái tựa khác hơn một tý: "Quê Nghèo – Xót Xa Những Tiếng Lòng". Giống như
Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.
1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì
thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác
lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá
nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên
từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ
biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các
con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với
nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần
đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái
như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả
hai.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy
thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ
thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo
cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc
tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng
không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có
xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nhưng chưa đủ
mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết
thiếu ấn tượng.
Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu
mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà
thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang
web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra
mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình
như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước. Hôm nay nhân dịp
viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là
bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu
không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay
hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh
đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị
trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm
xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít
nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi
pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.
Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để
viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 – anh
có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc
sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế
trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của
đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ
thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không
được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời
một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
Thơ Đến Từ Đâu?
Khi làm thơ thi sĩ sẽ ở 1 trong 3 tâm thế (trạng thái của tâm)
sau đây:
1/ Muốn phân tích phải trái, nói lý lẽ với độc giả (Reason With
Them)
Với tâm thế ấy thi sĩ sẽ viết ra bài vè như khá nhiều những “bài
thơ” của Thái Bá Tân. Ý tưởng mạch lạc, có vần điệu nhưng chỉ là sản phẩm của
lý trí, hoàn toàn vắng bóng cảm xúc.
2/ Tâm sự, chia sẻ cảm xúc với độc giả (Share feelings with
them)Đại đa số thơ chúng ta thường đọc thuộc loại này. Thơ có cảm xúc nhưng
cũng có sự kiểm soát của lý trí.
3/ Xả, trút cái khối yêu thương, thù hận, uẩn ức … chất chứa
trong lòng. (Get it off your chest)
Lúc ấy thi sĩ đã nổi cơn điên, lạc thần trí; ngài đã vứt bỏ
chiếc áo “cái tôi văn hóa” để trở về với “cái tôi đích thực” của mình. Trước
mắt ngài sẽ chẳng có độc giả; ngài sẽ chẳng viết cho ai cả; ngài chỉ muốn nói
ra, viết ra cho nhẹ lòng, nhẹ bụng. Nếu kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn đến một mức
nào đó, bài thơ viết ra sẽ rất nhiều cơ hội có hồn.
Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp - Đầu Mối Của Bất Công.
Bình thơ không bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn
đến bất công. Người bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt
làm ngơ”. Tác giả bài thơ đã có “tay nghề” cao hay vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau
cũng đều được đánh giá giống nhau, cá mè một lứa. Người may mắn có được những
bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca thì vì mang tâm trạng nửa tin,
nửa ngờ, không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên vẫn cứ
ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ
dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt - nhưng lại không biết mình ở phía sau -
vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực tự hào dù thực sự đang quanh đi quẩn
lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội.
Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp chỉ là thứ yếu.
Dĩ nhiên, tứ thơ hay cũng góp phần nâng giá trị của bài thơ nhưng chính cảm xúc
mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm một vị trí
trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một tuyệt tác thi
ca với những bài thơ làng nhàng.
Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ nhà phê bình trước
hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào. Nếu ngài “trút bầu
tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có cơ hội đạt danh
hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng chiêu thi pháp
để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ được đưa lên
bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và có tạo được
cao trào không?
Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó nhận biết cảm xúc
tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của thi sĩ – và đỉnh
điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài bình thơ thất
bại.
Kết Luận
Thưa hai nhà bình thơ Châu Thạch và Nguyễn
Bàng,
Thưa tất cả những nhà phê bình thuộc trường
phái Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp,
Với lối bình thơ ấy quý vị đã đối xử với bài
thơ như một đoạn văn không hơn, không kém. Tâm của quý vị có thể chính trực
nhưng lời bình của quý vị lại thiên vị, bất công, thơ hay thơ dở đánh lộn sòng.
Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý vị đều phớt lờ. Quý vị đã cầm
dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những phân tích, bàn tán hoa mỹ
của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác không hồn”, một bài thơ
không có “tính thơ”.
Xin những người yêu thơ hãy lên tiếng để cứu
thơ. Nếu không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ mà chúng ta trân trọng yêu
quý - sẽ không còn nữa.
Phạm Đức Nhì
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét