Vừa qua, Bông Tràm có đăng hai bài: "Bình thơ không thi pháp" của Phạm Đức Nhì và bài phản biện của Châu Thạch. Để bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn vấn đề đặt ra giữa hai nhà phê bình, hôm nay Bông Tràm xin đăng tải vài ý kiến của Lê Thiên Minh Khoa do Châu Thạch gửi đến.
Anh Châu Thạch quý mến!
Sáng nay, em đọc bài Phản biện... của anh. Thấy đồng
ý hoàn toàn về lập luận của anh, và thấy không cần phải nói thêm gì với ông
Nhì nữa. Thực ra, bài viết của ô
Nhì có nhiều "lỗ hỏng" lắm. Chỉ
nói với anh về vài "lỗ hỏng" trong bài viết của ông
ta:
1. Thi pháp là
một thuật ngữ của một của một ngành học mới - thi pháp học, một chuyên
ngành hẹp của lý luận văn học (và của cả Mỹ học nữa). Là thuật ngữ thì nó có
nghĩa khái niệm được chuyên ngành qui ước, không thể tự hiểu tự định
nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan mình như ông Nhì đã phát biểu: “Thi
pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các
phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để
chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.” Cách hiểu của ông Nhì có nhiều cái sai:
- Trước hết, không nên chiết tự từ (vì
thuật ngữ nầy đã có sẵn nghĩa qui ước của thuật ngữ do môn khoa học nầy quy định) mà lại hiểu đơn giản: thi là thơ;
pháp là phép, rồi suy ra: thi pháp la quy tắc làm thơ!... Thực ra, thi
pháp ngày nay được người có học trong ngành văn chương hiểu như
GS-TS Trần Đình Sử, nhà khoa học hàng đầu về Thi pháp học VN trích dẫn định nghĩa của Viacheslav Ivanov: “Thi pháp học là
khoa học về cấu tạo của tác phẩm
văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong
đó". Hiểu như vậy
thì Thi pháp (poetics)
không chỉ là phương pháp, quy tắc làm thơ mà rộng hơn nữa: quan niệm nghệ thuật,
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, hình tượng tác giả trong sáng tạo
nghệ thuật là bốn vấn đề cốt lõi của tinh thần thi
pháp (Theo Đào Thái Sơn – Vài nét về Thi pháp học
hiện đại).
Còn nữa, đối tượng của thi pháp không chỉ là thể loại thơ (trữ tình) mà còn mở
rộng ra các thể loại khác: truyện (tự sự), kịch và ký. Bởi vậy,
ngoài kiểu nói: thi pháp Truyện Kiều, thi pháp thơ Tố Hữu..., người ta
còn nói: thi pháp truyện ngắn, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp kịch… nữa.
- Hơn nữa, thi pháp không chỉ là "sử dụng vần, nhịp điệu (và
các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận" chỉ gồm các yếu tố thuần hình thức,
như ông Nhì định nghĩa mà thi pháp còn là "khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ
thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó". Chỉ nói riêng về từ "cấu tạo": Cấu tạo bao hàm cả yếu tố nội dung: ý,
tứ, nghĩa..., chứ không chỉ là hình thức, thủ pháp nghệ thuật thơ ca hoặc "sử dụng vần, nhịp điệu". Đúng ra phải nói là
tính nhạc của thơ, vì nhạc tính của
thơ mới bao gồm đủ cả 4 yếu tố: âm (âm đầu, âm chính, âm
cuối), thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, thanh (nhóm thanh bằng, nhóm
thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là hai
yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ, chứ không phải là
vần và nhịp như ông Nhì đã khẳng định trong định nghĩa trên. Chính
chúng (thanh và nhịp) đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ,
vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu
tố hài thanh và tiết tấu...
2. Lại nữa, ông Nhì viết: "Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn,
mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt
vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy". Như thế, rõ ràng là: ông Nhì chưa nắm rõ về khái niệm "tứ
thơ". Cũng đúng thôi, vì "Tứ
thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải...“Tứ
thơ” được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong
bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu
tố ngôn ngữ (từ). Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài
thơ – tác phẩm. Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng
của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành
gọi là “cấu tứ”. Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố
không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại". (LTMK - Lại Nghĩ Về Thơ - Tuần báo Văn nghệ số
5 - 03.02.2018). Như thế, tứ thơ không phải do vần mà có, như ông Nhì đã tưởng và viết: "từ đoạn trước
sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy". Hơn nữa, trong thơ hiện đại, thơ hậu hiện đại, thơ văn xuôi... có những bài không vần (chứ chưa nói "không bắt vần") mà tứ thơ vẫn
liên tục, liền mạch. Thơ không vần thì lấy đâu vần mà bắt, và như vậy là không
có tứ thơ và không phải thơ sao? ...
Vài dòng cùng anh. Chúc anh vui khỏe.
Thân quý.
Người em chưa gặp mặt anh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét