Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày
312 trang, khổ 13x19 cm, giá 100.000 đ. Mời quý bạn đọc ủng hộ!
Giếng quê có nơi gọi
giếng làng, giếng trời, giếng đồng, giếng đá, giếng đất. Nói chung đều là giếng
đào từ xa xưa, thường được thả bi, xây đá, có xây thành giếng (nhưng cũng có
nơi không có thành). Là giếng dùng chung cho cả làng, hoặc xóm thôn nào đó
trong làng. Nước giếng từ mạch nguồn tự nhiên, nên thường mát, trong, ngọt. Dùng
để uống, nấu ăn, tắm rửa, giặt dũ quần áo...
Giếng quê đã gắn bó lâu đời với đời sống của người dân quê tôi nói riêng, người dân Việt Nam nói chung, là nét văn hóa làng quê. Đây cũng chính là hình ảnh quê hương yêu dấu nơi có bờ tre, hàng dừa, hàng cau, bụi chuối, cầu ao, cây đa, giếng nước, sân đình...từ hàng ngàn năm đến nay. Nên giếng quê - giếng làng đã đi vào ca dao như cái duyên tiền định:
“Giếng làng em vừa trong vừa mát/ Đường làng em lắm cát dễ đi/ Em ơi trang điểm làm chi?/ Để cho anh phải sớm đi tối về”.
Thật đúng như vậy, giếng quê đã đi vào văn chương, tục ngữ, ca dao đậm chất trữ tình, ngọt ngào, man mác tình yêu quê, tình người và lung linh gợi cảm. Hình ảnh những người mẹ, người chị quanh năm lưng còng múc, gánh nước giếng quê để gánh về nhà cho cả nhà sinh hoạt đã trở nên gần gũi, yêu thương. Như nhà tôi ngày trước, ba mẹ, chị tôi cứ phải thường xuyên thay phiên nhau gánh nước từ giếng quê xa cả mấy trăm mét, để đổ vào cái ảng đúc bằng xi măng 7 đôi nước mới đầy cái ảng ấy. Chính vì vậy nên mới có câu ca dao ví von nhưng rất ngọt ngào:
“Đàn ông nông nỗi giếng khơi/ Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” hoặc “Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài/ Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây”.
Và còn rất nhiều hình ảnh về giếng quê đã đi vào đời sống của trẻ thơ gắn liền với những câu đố như: “Vừa bằng cái nong/ Cả làng đong không hết”, để nói lên rằng, giếng quê không bao giờ cạn mạch nguồn nước, cho dù thời tiết có khắc nghiệt đến bao nhiêu.
Trong tình yêu đôi lứa, ca dao đã khéo biết cách lấy giếng quê ra để so sánh, với những câu thơ rất mộc mạc, chân tình nhưng giàu hình ảnh: “Thà rằng thác xuống giếng khơi/ Còn hơn sống ở trên đời xa nhau”; hoặc lấy mạch nước giếng để khuyên răn lòng chung thủy của con người khi trai gái đến tuổi yêu nhau: “Giếng làng vẫn mạch nước trong/ Mặc ai phụ bạc đèo bòng với ai”. Hoặc mượn hình ảnh giếng làng, để người con trai tỏ tình với người con gái, và sự đối đáp thông minh của người con gái trên tầm của người con trai, đã thể hiện qua những câu ca dao sắc sảo sau:
“Hỏi cái giếng lạn em đâu/ Cho anh ngâm cái cột gõ, để lâu bù xòe/ Giếng lạn của em thì để ngoài hè/ Để cha mẹ anh uống nước, sao anh đè anh ngâm cây?”.
Những năm thập niên 80, 90 giếng làng quê tôi là nơi bọn trẻ trâu chúng tôi thường hay tắm tập thể vào buổi trưa hoặc buổi chiều tối khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, ông mặt trời bắt đầu xuống chân núi ngủ, xa xa từng đàn cò trắng hối hả bay về các lũy tre xanh trong làng, lúc đó không phân biệt nam hay nữ, cứ tập trung ở trần như nhộng tắm và đùa nghịch thỏa mái. Nhưng sau đó, những đứa con gái trong làng sắp chớm tuổi dậy thì, khi đã xuất hiện hai nhủ cau non trên ngực, thì tách ra không còn tắm chung nữa, vì đến cái tuổi biết dị tức mắc cỡ. Và sau đó, những em thiếu nữ mặc quần áo để tắm không còn tắm trần lông nhông, để giới mày râu choi choi như tôi được tò mò, tìm hiểu và khám phá...Để rồi đêm về mất ngủ, hay có những giấc mơ người lớn vô tình xuất hiện...
Một số giếng quê ngày ấy, hiện nay vẫn còn, nhưng sau này người dân quê tôi ít khi sử dụng. Vì phải gánh nước đem về nhà xa, tốn nhiều công sức. Sau này, mỗi gia đình tự đào giếng và làm thêm công trình vệ sinh khép kín, để lấy nước phục vụ cho đời sống, sinh hoạt của từng gia đình khi chưa có nước máy và đường ống dẫn nước máy vào thôn quê. Cho nên, giếng quê gần như thiếu vắng bóng hình, tiếng cười của trẻ thơ, vì giếng không còn hoặc ít sử dụng, thì nước sẽ không được khơi thông mạch nguồn nên giếng quê đã đi vào kỉ niệm một thời trẻ thơ của tôi.
Nhưng có lẽ giếng quê vẫn còn đó, vẫn sống mãi trong câu thơ, câu ca dao, cánh cò, vì tình yêu quê hương là bất biến, không thể đổi thay, không ai thay lòng, đổi dạ với quê hương. Cho nên Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết: “Quê hương là chùm khế ngọt/ Cho con trèo hái mỗi ngày... Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nỗi thành người”. Vậy nên giếng quê vẫn hằng in trong tôi là mãi mãi...
24.11.2020
Võ Văn Thọ
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét