Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày
312 trang, khổ 13x19 cm, giá 100.000 đ. Mời quý bạn đọc ủng hộ!
Đồng bưng đỏng đảnh nắng mưa, khi thì chang chát nóng như đổ lửa, lúc thì lạnh quắt queo như ông trời thương tiếc cho bao bận não nề nhân thế. Dân miền tây sông nước quen dùng lịch âm thay vì lịch dương của thời đại. Các tiếng gọi con nước, trăm rằm đã trở thành ám thị nhớ thương trong lòng tôi mỗi độ xa nhà.
Tháng
tám lịch dưới về, mùa của trẻ thơ quây quần phá cỗ bữa đêm rằm. Mỗi người đều
có những niềm vui và nỗi buồn riêng. Con trẻ vui niềm vui rước đèn phá cỗ, những
mái đầu phủ sương, hứng nắng thì lại tất bật chuẩn bị cho mùa "mạ
hát". Từng hạt thóc chắc mẩy, căng tràn sức sống của đất trời gửi vào, cứ
vậy mà được giữ lại làm giống cho mùa sau. Những thân mạ non thơm mùa đồng nội
cứ vậy mà yên bình đến với đời. Nhẹ nhàng qua tay những người nông dân, rồi gắn
đời mình nơi từng mảnh đất ở miệt đồng bưng.
Nhà
tôi không làm nông, nhưng tuổi thơ tôi luôn gắn liền với lũ bạn con nhà thuần
nông. Bùn lầy nơi đồng ruộng, tiếng sáo diều gọi đàn trâu khi chiều về hay mùi
hương của vị cốm mới được làm từ những hạt gạo vừa chín tới còn ấp ủ những giọt
sữa trời, đã trở thành một quyển nhật ký tôi mãi cất giữ trong lòng.
Thời
đấy cái gì cũng thuần nông nghiệp cả, máy móc ngày đó không phải quá xa lạ, chỉ
là ông bà mình sống đâu quen đó. Dần dà cũng quen thuở quen thời. Từng bóng
lưng trâu mỏi mệt ngã xuống nơi triền đê cỏ xanh buổi hoàng hôn nán lại cánh đồng,
những chiếc lưng đen bóng rồi thành điểm đáp cánh cho những vết bùn lầy cứ vậy
mà trôi xa vào nhung nhớ.
Tôi
nhớ những ngày theo chân lũ bạn chạy trên từng cánh đồng bạt ngàn sau mùa gặt,
để nhặt nhạnh từng quả trứng còn sót của bọn vịt chạy đồng. Niềm vui bé thơ đọng
lại nơi từng cái trứng nhỏ, lấm lem màu bùn đất và bết dính từng cọng rơm rạ
vàng óng, cứ vậy mà in hằn suốt cả một bầu trời trẻ dại.
Mùa
gặt qua lại đến mùa cho đồng ruộng ngơi nghỉ sau gần nửa năm gồng mình đẩy đưa
sự sống cho từng nhành lúa, nuôi từng hạt gạo căng đầy. Chiếc cày của nhà bên
đã có lần in vết chân tôi lên đó. Tôi nhớ những ngày mà con trâu đi trước, cái
cày theo sau, còn chân tôi thì tò tò chạy cùng, nghĩ mà mắc mệt, nhưng lại vui
một niềm vui khó tả. Có những cú ngã nhào, mặt mày cắm vào bùn nhơ, mình mẩy
thì như con chuột đồng vừa trốn ra khỏi ổ để đi ăn ké thành quả của bác nông
dân. Tất nhiên, về thì má đâu nhận tôi là con má, phải qua một bận tắm rửa bằng
nước giếng trong ngần, rồi vài câu mắng la song hành cùng nhành me đã róc sạch.
Khóc tí, rồi má lại cho tiền chạy qua nhà cô hàng xóm mở quán tạp hoá be bé mua
ít kẹo.
Tôi
tự hỏi có phải nhịp sống quá hối hả, hay do lòng người vội đổi thay. Để rồi khi
niềm tiếc thương cho ngày cũ quá lớn rồi lại sinh ra nhung nhớ. Tối tối, nội ra
cửa trước nhà, pha ấm trà hoa lài rồi rít hơi thuốc. Nội nói: "Giờ người
ta hiện đại quá hen mạy, đi đứng thì xe cộ đưa đón, đến lúa thóc cũng có bốn
bánh rước tới tận cửa". Lời nói ngỡ đùa đùa nhưng lại pha tí chạnh lòng.
Nhà tôi không trồng lúa, nhưng ba đời đều là thương lái buôn mua lúa. Ngày nội
còn trẻ, cỡ tuổi tôi thì đã đứng mũi chóng sào cho ghe ra khỏi bãi sau khi cân
lúa xong. Năm nội hai mươi, ông cố nhường lại cơ nghiệp cho nội quản lí, nội từ
cậu chủ lên làm ông chủ. Những năm đó lúa thóc dễ trúng mùa lắm, hột nào hột nấy
chắc mẩy à, người dân gieo xuống rồi canh nước, tưới phân, ai đâu mà thèm sài
ba cái thuốc trừ sâu trừ xấu, nội bảo thế.
Cơ
duyên trên đời này có tồn tại, ông nội là dân ở miền miệt thứ múc chỉ cà tha, vậy
mà mấy bận ông bà cố hỏi người dạm ngỏ mối mai cho ông nội mà ông từ hết. Lần
đó, có cô kia còn là con gái của một ông hội đồng có tiếng, mà ông đâu có chịu.
Ông bà cồ không đặt nặng môn đăng hộ đối, nhưng mấy mối ông bà để ý cũng phải
khá giả, nề nếp đàng hoàng. Ông nội uống xong ngụm trà, mắt nhắm hờ kể về cái lần
đi Long An định mệnh đó. Năm đó ông hai lăm tuổi, con trai cỡ ông ngày đó gần
như thành gia lập thất cả rồi, có ông là mải mê thu chi sổ sách. Ông nội nói:
"Người ta nhìn vô tưởng tao điên vì tiền, mà hỏng phải, tao ráng làm vì
tao biết mai kia tao phải lập gia đình, chút đỉnh cho ổng bả, chút đỉnh cho con
cái, còn chút đỉnh thì chắt mót cho tuổi già mày ơi". Ông là một người rất
biết suy nghĩ, không muốn dựa dẫm vào gia đình hay bất kỳ ai. Mùa mạ hát năm ấy,
ông về thăm Long An. Thật ra không phải là đi thăm ngẫu nhiên, mà là bạn thân của
ông mời ông đi ăn thôi nôi con của bác ấy. Đi ghe cũng mấy ngày, đêm trước ngày
về ông uống say bí tỉ, rồi quả quyết phải về ghe ngủ, rồi trời xui đất khiến kiểu
gì lại vấp rồi té xuống sông. Đêm đó trăng sáng lắm, trong lúc đắm say kể lại
ông nội cảm thán một câu như vậy. Bà nội thì đang ngồi giặt quần áo bên cái sàn
nước cạnh sông, nghe đâu tiếng đùng đùng phía đối diện rồi cái gì quợn nước quá
trời, bà biết có người té nước rồi, thế là bà quăng quần áo sang bên rồi nhảy
cái đùng xuống sông, bơi sang đưa ông vào bờ. Đêm đó bà túc trực bên cạnh ông,
sợ ban đêm ban hôm gió mà lùa ngang thì trúng gió chết. Bà lén giấu ông ở một
cái chòi lá giữa đồng gió thổi. Rồi bà trốn về nhà nấu bát cháo, xắt miếng gừng
bỏ vào, rón rén mang ra cho ông. Thời đó mà, cái nắm tay thôi đã là quý như
vàng. Đâu như người trẻ bây giờ ôm hôn, rồi làm bao chuyện nghĩ thôi cũng đau đầu
rồi. Tình cảm của ông bà tôi ngày xưa trong sáng lắm. Trong lúc nửa say nửa tỉnh,
ông kịp nhìn thấy dung nhan mặn mòi của bà, có lẽ từ khoảnh khắc ấy, ông nội đã
xác định là đến lúc để thành gia lập thất rồi. Bà hay nói, ngày đó bà cũng có
tiếng trong vùng, phần vì có nhan sắc, phần vì chịu làm ăn. Lắm khi kể về ngày
xưa ông bà đều đồng thanh cười lớn vì điểm chung kén chọn của mình. Mà nghĩ
cũng phải, ngày đó pháo đỏ rượu mừng chỉ mong đời mình sẽ trải đủ một lần thôi.
Dù là ngày vui nhất đời nhưng chẳng ai muốn sẽ có lần hai. Chỉ mong chờ được
đúng người, đầu gật gù, miệng e ấp tiếng thương, còn lòng len lén ưng ưng người
ta.
Sáng
hôm sau ông đã chống ghe về nhà, để lại bộ áo bà lén mượn của cha kèm đôi dòng
nhỏ ông viết: "Tui chưa biết gọi cô là gì, lần này âu cũng là cái duyên.
Tui thì thứ hai nên tui gọi cô là cô hai Duyên nhe. Cháo của cô hai Duyên nấu
ngon lắm, rồi áo cô cho tui mượn cũng ấm nữa. Lần này vì có hẹn với người thân
nên tui về gấp. Không kịp hỏi han tên tuổi của cô, rồi không biết người cứu sống
mình nhà ở đâu, chỉ vội gửi lại đôi dòng này kèm mặt dây chuyền làm tin. Mai mốt
tui quay lại nơi này, tui sẽ đi kiếm cô hai. Mà nếu cô hai vẫn còn ở vậy một
mình thì cô hai phải đợi tui à nghen. Tui... Tui chấm cô hai rồi...".
Kể
tới đoạn này nội cười cười, rồi nhanh sau đó nước mắt cũng len lén trào dâng.
Ông nói: "Tao nhớ bà nội mày quá, con thằng Hai ơi!". Ông cứ luôn kể
về bà như một niềm tự hào quý báu của đời mình. Mùa cấy mạ non giáp một năm sau
lần ông gặp bà thì ông giữ đúng lời hẹn trở về tìm bà. Rồi sang nhà thăm hỏi đấng
sinh thành của bà, xong rồi nhờ mối mai đem cau trầu qua dạm hỏi. Mặt dây chuyền
kèm lá thư tay ông để lại ngày đó bà vẫn còn giữ, như lời hẹn ước đã chọn ông
làm bến đỗ cho chuyến đò cuộc đời. Bà theo ông về miền miệt thứ, làm dâu miệt
bưng biền và làm con gái nhà người ta. Thoạt đầu bà hay khóc, vì nhà ông cũng
là xứ ruộng đồng, nhìn gió thổi từng nhành lúa trĩu đầy bông hay thỉnh thoảng
nghe mùi mạ non bay ngang cánh mũi, cái là tuyến lệ của bà lại chạy hết công suất.
Rồi thì dần cũng quen, sáo cũng phải quen lồng, như lia thia cũng quen chậu.
Chim vào lồng thì biết thuở nào ra. Nhưng mà những ngày ông bà còn được ở bên
nhau bà hay nói: "Cái lồng tình này nội hong thấy ngợp gì hết, nội thương
dân xứ này, coi đây như là nơi hạ sinh ra nội lần nữa vậy".
Thời
gian thì cứ êm ả trôi, đôi bận không để ý là coi như quay lại chỉ muốn la lên:
"Ê cái đồ thời gian vô tình, cái giống gì mà bạc bẽo thấy sợ à". Mà
thực ra là không phải, thời gian chỉ làm tròn nhiệm vụ của nó, đó là đưa đón
dòng đời chảy trôi, chứng kiến và lưu giữ dùm mình những vui buồn, được mất của
chuỗi ngày đã cũ. Thời gian không bạc như vôi, chỉ tội là đời người quá nhỏ bé
khi đứng trước từng thời khắc sinh ly tử biệt. Tuổi già sẽ cập bến khi từng
nhành bông "hoa niên" của đời người bắt đầu héo dần. Lúa trên đồng
thì vẫn trổ. Mạ non chào đời từ hạt lúa, rồi kiên cường bám trụ đời mình trên mảnh
đất đồng bưng. Bình đạm hứng nắng, đón mưa và uống sương của đất trời. Từng khắc
trôi qua, bông lúa trĩu nặng rồi lùi bước về sau cho từng hạt ngọc trời trong
ngần lớn dần. Rồi mạ non thành lúa cắt. Lúa cắt để lại thành mạ non. Vòng đời cứ
vậy mà vần xoay, chỉ tại lòng người chẳng rõ nông sâu. Cứ thích nhận lại mà sợ
sệt cho đi.
Tôi
vẫn tin, trong từng làn gió nhè nhẹ trên đồng đưa hương mạ non, đâu đó còn là vị
mằn mặn của từng giọt mồ hôi rơi xuống từ những tấm lưng, vầng trán của những
phận người ngày đêm âm thầm làm ra từng hạt ngọc cho đời. Đó còn là rất rõ vị
tình xưa của ông nội dành cho bà nội. Thời thế dẫu có chuyển dời, miễn cầu lòng
người vẫn còn son sắc với nhau, thì lúa vẫn sẽ trúng mùa dẫu chẳng cần phân thuốc,
nội hay bảo với tôi như thế.
Trời
đã vào khuya rồi, năm nay gió bấc non lại về sớm hơn một chút. Nghe nói người
ta chặn đập gì đó, nước không về được nhiều, rồi băng tan ở đâu hai đầu trái đất,
thêm nạn ô nhiễm môi trường nên tiết trời bây giờ khó lòng mà nắm bắt chắc chắn
được. Tiếng ếch nhái râm ran ngoài đồng, hơi lạnh làm tôi hơi rùng mình, quay
sang nhắc ông nội vào nhà nghỉ ngơi, mai là đám giỗ bà nội nữa rồi. Ông buông
tách trà xuống, chép chép miệng: "Ngót nghét cái bả bỏ tao cũng mười năm rồi.
Bây giờ tao còn khoẻ tao lo đám cho bả, mai mốt tao theo bả rồi thì nhọc cho tụi
bây". Gió nhẹ nhàng chỉ đưa hương mạ non mới cấy vậy mà mắt ông nội cứ kèm
nhèm không giấu nổi được sự ươn ướt. Ông nói bụi bay vô mắt, nhưng tôi hiểu thực
ra là lòng ông đang nhớ nhung về bà lắm. Vì mùa "mạ hát" năm nay, chỉ
có ông cùng kỷ niệm về bà đón chờ mà thôi.
Vĩnh Hoài
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét