Tác phẩm kỷ niệm 10 năm hoạt động của Bông Tràm, có sự góp mặt của 50 tác giả với trên 100 tác phẩm. Sách dày
312 trang, khổ 13x19 cm, giá 100.000 đ. Mời quý bạn đọc ủng hộ!
Lại một đêm không điện, không đèn! Tháng này đếm sơ cũng đã bảy tám lần như thế. Hằn học riết cũng nhàm. Thôi! Không buồn tức nữa. Như thường lệ, tôi đốt một ngọn đèn dầu lên bàn thờ ông bà, rồi bưng một chiếc ra bàn đá ngoài hiên. Tối nay Mười lăm, trăng tròn vành vạnh, trải tấm lụa vàng nhàn nhạt xuống mặt đất. Ba má đã ngồi đó từ sau bữa cơm chiều. Những tia nắng ngày hè oi bức khó chịu đã tan đi mất hút, nhường chỗ cho mấy con gió nhẹ có pha chút lành lạnh của sương đêm, nhường chỗ cho mấy tiếng ve ngân trên nhánh còng soi mình con nước lớn, nhường chỗ cho những dòng hoài niệm ùa về.
“Cái thằng, thấy dị mà nhát hít, nhớ
cái hồi còn ngủ ngoài đồng, ngoài ruộng mà tui mắc cười quá má nó ơi!” - Ba nói
xong, cười lên giòn giã. “Bây giờ lớn bộn, hết sợ rồi đó ông! Nhớ hồi đó có lần
nó xung phong vô trại châm dầu đèn đem ra hông? Mới đi có nửa đường thì “cúng”
hết dầu xuống cho cái mương”. Nói rồi hai ông bà phá lên cười như xem hội chợ.
Tôi nghe vui quá cũng tranh thủ đốt lẹ ngọn đèn dầu rồi bưng ra bàn đá ngoài
hiên hóng chuyện.
- Ba má nói chuyện gì mà cười dữ
vậy?
- Nói chuyện mày hồi còn giăng mùng
ngủ ngoài đồng chớ gì. Vô châm giùm cây đèn dầu đem ra, mà nó mới đi nửa đường
thì úp hết trơn hết trọi xuống mương, bỏ luôn, hổng dám lụm, chạy riết ra đồng
mà mặt mày mếu máo, khóc hụ hụ”.
Lần đó còn nhỏ xíu, nhưng kỷ niệm ấy
đối với tôi như mới vừa ban nãy. Tự nhiên nay má nhắc lại làm tôi có chút mắc
cỡ, rồi cũng không nhịn được cười, tự cười cho cái tính anh hùng rơm ngày đó.
Cái “ngày đó” thấm thoát cũng đã mười mấy năm, cho đến bây giờ ba má vẫn còn
nhớ như khắc in vào não, tôi tặng liền cho ba má một “like” nể phục. Trải qua
thời ấy tôi mới nếm trải được từ “khổ” của ba má hay nói viết thế nào, nó phải
viết nên bằng mồ hôi, nước mắt và những nỗi lo, chứ không phải bằng mực. Nhưng
nghĩ lại, nếu không có nó thì chắc là tuổi thơ tôi chẳng có gì đáng nói. Đồng
ruộng đã vẽ nên một nửa bức tranh tâm hồn tôi, nó sống động lắm và dồi dào
hương vị. Trong đó, lúc nào cũng thấp thoáng hình ảnh những chiếc mùng giăng
giữa đồng giữa ruộng, tối đen bốn bề như mực.
Những ngày bé tôi sống ở nơi mà xung
quanh tôi được bao bọc thôi là đồng lúa bạt ngàn trĩu nặng phù sa, cảm giác
thanh bình đến lạ. Vào mùa gặt thì vui không tả nổi, tôi cùng tụi thằng Tí
thằng An chạy dọc bờ đê để tóm gọn hết lũ chuột đồng đáng ghét, rồi này thì thả
diều, rượt nhau trên đồng cả buổi mà không mệt. Ban ngày thì vui thế đấy, nhưng
đêm đến thì thằng nào thằng nấy không dám rời ba má nửa bước chân. Khi những
hạt lúa căng tròn được máy liên hợp vô bao, rồi được những bác nông chất thành
một đống to đùn giữa đồng, bổn phận của
người nông dân lúc này là “lúa ngủ chỗ nào, mình ngủ chỗ đó”. Sáng hôm sau nếu
thời tiết thuận lợi thì ba má tiến hành “banh lúa” ra cho tắm nắng, chiều tà
thì cào lại thành đống, trùm bạt cao su, đêm đến thì cả nhà lại giăng mùng giữa
đồng canh lúa. Phơi nắng vài ba ngày cho thật khô thì vô bao, chất đống, rồi chờ
thương lái đến lấy xuống ghe, thường là hôm sau. Và đêm cuối cùng đó cả nhà lại
ngủ canh.
Muốn có một chiếc mùng giữa đồng cũng
chẳng có gì to tác với những người nông dân chính hiệu. Nếu không có bốn cây trúc
hay bạch đằng thẳng thớm để cắm xuống đất làm cột giăng mùng, thì chỉ việc dùng
bốn bao lúa dựng cho đứng vững ở bốn góc là có ngay chỗ buộc dây mùng chất
lượng. Bốn bao lúa đứng lù lù như bốn tên vệ sĩ trung thành canh cho chủ yên
giấc sau một ngày mồ hôi ướt áo.
Màn đêm buông xuống là tôi chui tọt
vào trong mùng nằm im phăng phắc. Ai chưa từng trải nghiệm chắc khó hình dung
được cái cảm giác “rợn người” lúc ấy. Những đêm không có trăng, bốn bề tối đen
như mực tàu từ trên hư không trùm xuống. Chỉ có duy một ngọn đèn dầu le lói.
Tiếng lũ ếch, nhái, dế, ễnh ương, kêu vang từ những cánh đồng chưa gặt… đấy là
chưa kể những lúc trời sa mưa bất chợt giữa đêm, gió lạnh và ướt nhẹp.
Mấy đêm ngủ đồng, đêm nào ba cũng
“hú” được bác năm, chú bảy, chú tư cũng canh lúa ở đồng bên sang chơi. Mấy ông
chú ngồi trên những bao lúa được chất thành đống cao qua đầu như một quả đồi
nhỏ, nhâm nhi tách trà. Những người lớn bắt đầu kể cho nhau nghe những chuyện
đời, chuyện nghề, chuyện làng xóm, và với cái không khí ấy thì chắc chắn một
điều là sẽ khó vắng mặt của những câu chuyện ma.
Lúc nhỏ tôi là “chúa” sợ ma, mặc dù
chả biết mặt mũi con ma ra làm sao, mà vẫn sợ. Nhưng hễ mỗi lần nghe ba với mấy
chú kể cho nhau những câu chuyện đầy tâm linh ma mị thì chẳng bao giờ tôi chịu
nằm yên trong mùng, vì nằm xa quá nghe không rõ. Tôi trèo lên mấy bao lúa, ngồi
cạnh sau lưng ba để được “thưởng thức” trọn vẹn những câu chuyện trong giọng kể
đậm chất miền Tây của bác năm, chú bảy. Ôi trời! Nào là ma da, ma nữ, ma khóc
ru con trên những ngọn còng, chuyện ông nọ nhậu xỉn bị ma giấu vào trong bụi
tre, nhét bùn vào miệng… Lúc nghe thì hăng say, đến lúc tàn cuộc vui, đồng ai
nấy về, lúa ai nấy canh thì tôi mới bắt đầu sờ sợ, tôi nằm giữa ba má, ôm chặt cái
lưng ấm áp của ba để có cảm giác “an toàn”.
Sợ nhất là lúc mà ba bảo rằng “ba
qua chỗ chú năm, chú tư chơi, con ở đây với má”. Rồi má lại bảo là “con ở yên
trong mùng, má vào trại châm thêm miếng dầu vô đèn, xíu ra liền”. Tôi chẳng bao
giờ dám đi theo ba, vì qua chỗ của mấy chú thì xa lắm. Mà xin đi theo má thì má
lại không cho “đi hết người ta lấy lúa mình rồi sao?”. Thế là tôi phải nằm im
re một mình trong mùng. Nói canh lúa chứ tôi trùm mền kín mít, có ai cộ hết lúa
đi tôi cũng không hay. Mấy bao lúa mà biết nói thì chắc nó sẽ mỉa mai dữ lắm “tụi
tao canh mày thì có, chứ mày canh tụi tao hồi nào?”. Nhắm nghiền đôi mắt, trong
đầu tôi toàn tưởng tượng đến những bóng hình đáng sợ đang phất phơ, lủng lẳng
trên ngọn cây gáo xa tít trong hậu.
Có lần cũng thế, tôi trông má ra như
trời hạn trông mưa. Nhưng khi má ra thật thì một phen hú vía. Mà phải má tôi
hông? Một người đàn bà lấp ló xa xa, tóc xoã hết ra đằng trước, che kín cả mặt,
rồi thì khóc hụ hụ, cái đầu thì cứ lắc lư qua lại, hai tay bưng ngọn đèn dầu
trước ngực. Tôi nhìn mà thất kinh hồn vía, la toáng lên, tốc mùng mà chạy. Vừa
khóc, vừa la, vừa cắm đầu chạy, nửa đường thì nghe có tiếng cười lớn,“con ma
này cười sao nghe quen vậy ta?”, tôi vẫn cứ chạy mãi cho tới khi nghe thấy
tiếng kêu “ê ê… Quay lại, má nè, má nè”. Tôi quay lại nhìn, trong ánh đèn dầu
le lói, má cười sặc sụa trước sự ấm ức và tức giận của tôi. Lần đấy tôi giận
thật. “Tại sao má lại làm như thế với một đứa bé 6 tuổi dễ thương như mình
chứ?”
Hôm sau má đem chuyện ấy kể cho ba
và mấy chú nghe chơi, ai cũng cười ầm lên. Cười cho sự “nhát cấy” của tôi, hay
là cười cho “trò chơi” rất đỗi hài hước của má?... Vì sĩ diện của một thằng
“đàn ông lên sáu”, tôi đứng vụt lên, bữa nay má không cần đi châm đèn dầu nữa,
con vô trại châm cho má! Ai sợ ma hồi nào!
Thấy ai nấy cũng tỏ thái độ bất ngờ,
rồi lại cười lên như coi kịch. “Đi được không đó nghen nhóc? Dọc đường ma rượt
chạy không kịp à!”. Điều đó càng kích thích lòng mong muốn chứng tỏ của tôi, có
trời xuống đây mà cản được. Tôi dũng cảm từng bước chân vững chắc trên con đê
vào trong trại. Đoạn đường ấy nói xa thì cũng không xa mấy, nhưng cũng không
nói là gần. Đi đến khi khuất bóng ba má với mấy chú thì tôi mới thật sự có cảm
giác “hối hận” nhẹ. Nhưng lòng tự tin quá lớn thúc giục tôi phải hoàn thành
nhiệm vụ cho bằng được. Cuối cùng thì ngọn đèn cũng ở trên tay. Tôi nhẹ nhàng
từng bước theo lối cũ ra đồng, trời lúc này tối hơn khi nãy rất nhiều. Con
đường đê chạy dài có vài ba chỗ quẹo trái, phải, chạy thật nhanh thì cũng mất
gần 7 phút. Giờ tôi mới thật sự sợ. Tôi gần như nhắm nghiền mắt mà đi thật chậm,
lâu lâu hé mắt nhìn đường một cái, không dám nhìn lung tung, kẻo chẳng may thấy
thứ gì đó chắc là… chết khiếp mất!
Được nửa đường thì đột nhiên có một
bàn tay ma lực chụp vào cổ chân tôi. Rồi tôi ngã sấp mặt, cả ngọn đèn dầu lọt
tủm xuống mương nước. Không còn nghĩ ngợi gì nữa, tôi vừa khóc vừa chạy thục
mạng ra chỗ ba má, vô tâm vô tình bỏ rơi bạn đèn dầu đáng thương nằm lạnh lẽo
dưới mương cùng một chiếc dép lào.
- Ma rượt hay gì mà khóc dữ vậy nhỏ?
Kể bác nghe coi.
- Sao khóc? Rồi đèn đâu con trai của
má?
Tôi vừa nức nở vừa ấp úng “con…con…
ma chụp giò con, con té, đau quá à!”. Rồi tôi chui tọt vào trong mùng trùm mền
lại, mặc cho những tiếng cười khoái chí ngoài kia, kèm theo những câu an ủi
nghe thật “đáng ghét”.
Sáng ra thì tôi mới hiểu, đêm qua
không hề có bàn tay ma quỷ nào hết, chẳng qua là một chiếc bao đựng lúa rách
nát bị vứt trên đê. Chiếc dép lào của tôi còn đang mắc lại ở trong đó. Chao ôi!
Quê thiệt là quê…
Mỗi khi nhớ về chuyện ngày xưa ấy,
tôi lại tự cười mình. Cười cho cái nhút nhát, cho cái “bản lĩnh” ngày nào của
một anh hùng rơm lên sáu. Phải được ước thì tôi sẽ ước mình quay về và sống
trong những ngày thơ ấu đó, bên ruộng, bên đồng, vô nghĩ, vô lo. Được sống lại
cái cảm giác ngủ đồng “rợn người” mà đầy hồn quê thân thương giờ đã thành những
dòng hoài niệm.
Ánh trăng tròn vành vạnh vẫn đang trải từng giọt lấp lánh lên những bông lúa chín vàng ươm, gió đưa lay động. Sắp vào mùa gặt. Những chiếc mùng giữa đồng ngày ấy sẽ được giăng lên, giăng lên trong tiềm thức!
Lê Văn Nhân
© Tác giả giữ bản quyền. Vui lòng ghi rõ nguồn Bông Tràm sử dụng lại nội dung này.
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét