Thời hoàng kim của sân khấu cải lương, người soạn giả được
xem là “linh hồn của đoàn hát”, được giới nghệ sĩ kính trọng. Có lẽ do biết
được điều này, nên soạn giả Nguyễn Phương – vốn xuất thân là một nhân viên của
Bưu điện Sài Gòn, ông đã tự ý bỏ nhiệm sở để dấn thân vào cái nghiệp… “gạo chợ
nước sông”, chẳng khác gì như kiếp lục bình trôi nổi theo con nước lớn ròng!
Tương tự như soạn già Nguyễn Phương, soạn giả Qui Sắc là một
nhà giáo. Ông đã từng là thầy dạy kèm cho cố nghệ sĩ Thanh Nga. Sau này, ông bỏ
hẳn nghề dạy học theo nghề soạn giả. Vì sao? Vì người soạn giả ngày xưa được
các bầu gánh hát rất mực ưu đãi và trân trọng. Bởi lẽ, với “tầm nhìn” của nghề
nghiệp, các ông bà bầu gánh hát thừa biết rằng, soạn giả là “linh hồn của đoàn
hát”. Một vở tuồng cải lương được đoàn
chọn biểu diễn chiếm tỷ lệ 50% của đêm diễn, phần còn lại là ở nơi các nghệ sĩ
cũng như các yếu tố phụ khác như: cảnh
trí, y trang (bây giờ gọi là phục trang), ánh sáng, âm thanh. Lại còn một
điều, một vở tuồng hay, một vai diễn hay tạo nên tên tuổi cho người nghệ sĩ,
chớ không phải người nghệ sĩ hay tạo nên vở tuồng hay. Chắc chắn là như thế!
Và, điều này cũng đã khẳng định vai trò của người soạn giả
cải lương ngày xưa!
Cách nay hơn ba tháng, thị xã Dĩ An kỷ niệm “Dĩ An 15 năm
thành lập”, có nhờ tôi qui tụ soạn giả ở thành phố để thực hiện một CD vọng cổ
với chủ đề “Hát về Dĩ An”. Tôi mời soạn giả Phi Hùng (hiện đã mất) và soạn giả
Đức Hiền viết bài cho Dĩ An. Lúc uống cà phê sáng, tôi hỏi soạn giả Đức Hiền:
“Tôi có nghe bài Tân cổ giao duyên “Em sắp về chưa?” anh ca với nữ nghệ sĩ Hà
Mỹ Hạnh, giọng ca của anh chân phương, không ẻo lã nên tôi rất thích. Vậy thì…
nguyên nhân nào từ một người diễn viên (tôi né hai từ “kép hát” vì sợ anh
buồn!) để trở thành một người soạn giả?”. Soạn giả Đức Hiền trả lời tôi bằng cả
sự chân tình: “Tôi rất mang ơn anh Hoa Phượng. Hồi sinh thời, anh Hoa Phượng có
nói với tôi: "Anh thấy mày (tức soạn giả Đức Hiền) viết được đó, nên viết đi.
Mày làm một soạn giả thì người ta gọi mày là thầy. Còn mày làm một kép hát,
cho dù mày có nổi tiếng đến đâu, người ta vẫn gọi mày là thằng kép" (gần
nguyên văn)
Tôi chân thành xin lỗi các nghệ sĩ khi trích dẫn những lời
rất thật này. Không ngoài việc, để làm sáng tỏ hơn vai trò của người soạn giả
ngày xưa!
Có lẽ, cảm nhận được lời khuyên chí tình của một soạn giả
đàn anh, nên “anh kép” Đức Hiền “chuyển hệ” làm soạn giả. Anh kể: “Những ngày
đầu chuyển qua viết tuồng hết sức gian nan, khi cho ra mắt vở tuồng đầu tiên,
anh kép chánh của một đoàn hát trung ban nọ (vì lý do tế nhị xin được giấu tên) nói lời dẽ bĩu, mia mai cho anh là… “soạn giả lớn” thế nọ, thế kia!".
Đây cũng là một tính xấu của nghệ sĩ cải lương ngày xưa,
thường hay ghen ghét, đố kỵ nhau. Và, anh kép chánh nọ tuyên bố là không hát
tuồng của soạn giả Đức Hiền!
Và rồi hiện tại, soạn giả Đức Hiền đã được đông đảo khán giả
yêu cải lương biết đến qua những vở mà ông viết như: “Bàn thờ tổ của cô đào”
(chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của cố nhà văn Nguyễn Quang Sáng) ,“Cho rừng
lại xanh”…
Soạn giả ngày xưa khi đến với “nghề” mỗi người một hoàn cảnh
khác nhau. Duy có điều… họ có “trụ” được với “nghề” hay không lại là chuyện
khác. Cũng bởi vì… có những soạn giả chỉ cho trình làng một vở tuồng duy nhất,
rồi sau đó không còn thấy xuất hiện nữa!
Một bằng chứng điển hình sau 30/04/1975, soạn giả Trần Văn
Nhất viết vở tuồng “Chung bóng trăng thề” – còn có tên gọi khác là "Hoa Thiên Lý" (đây cũng là tên của nhân vật trong tuồng) được trình diễn trên sân khâu
Trùng Dương thuộc Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo vào những năm đầu mới giải phong.
Khán giả lúc bây giờ rất thích nhân vật “Tony-Đôn” do nam nghệ sĩ Tiến Dũng
đóng. Có thể nói, đây là một vở tuồng rất “ăn khách” trên sân khấu Trùng Dương
hồi bấy giờ. Bên cạnh đó, còn có các vở khác như: “Người đẹp trong tranh” của
cố soạn giả Huy Trường. Có thể nói, đây là hai vở tuồng chủ lực của đoàn cải
lương Trùng Dương. Sau này có thêm vở “Tình hận thâm cung” của cố soạn giả Thành
Phát (chuyển thể từ vở chèo “Nàng Son” của cố nhà thơ Nguyễn Bính) cũng đã một thời “làm mưa, làm gió” trên sân
khấu này. Nhưng rồi sau đó, soạn giả Trần Văn Nhất – người viết tuồng cải lương
“Chung bóng trăng thề” – tức “Hoa Thiên Lý” không còn thấy nữa! Trong giới soạn
giả hiện nay hoàn toàn không biết ông hiện sống ở đâu, còn hay đã mất? Điều
này… tương tự như soạn giả Trần Phán, ông chỉ viết duy nhất bài Tân cổ giao
duyên “Chiếc nón bài thơ” do hai nghệ sĩ Minh Vương và Thanh Kim Huệ (lúc này
chưa được vinh danh) ca trên đài Thành phố. Nhưng rồi sau đó, thính giả
nghe đài không còn được nghe tác phẩm nào mới của ông. Phải chăng, đây là cái
“duyên” của người cầm viết đã đến lúc phải dừng?
Như vậy cũng đủ để thấy… người soạn giả ngày xưa mà “trụ”
được với nghề hoàn toàn không hề dễ một chút nào! Một vở tuồng viết ra phải
chịu cực khổ cả tháng trời mới được hoàn thành, nếu như không được các đoàn hát
sử dung thì kể như là… công cốc!
Vì vậy, có thể nêu ra một nhận định. Sự thành công của “nghề
viết” vốn đã khó, bám trụ được với “nghề” lại càng khó gấp vạn lần hơn. Cái
“duyên” của người soạn giả cay nghiệt đến như vậy. Phải chăng vì thế, người ta
mới gọi nghề viết là “nghiệp” chăng? Có thể là như thế lắm!
A LÝ PHƯỢNG TUYỀN
______________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét