Thu Nguyệt là nhà thơ có tài về lục bát, phải công nhận
như thế. Lục bát của Thu Nguyệt nhẹ nhàng, tự nhiên như đã được “lập trình” sẵn
trong tâm hồn. Thế nên độc giả ít khi nhận thấy kỹ thuật trong ngòi bút ấy, cứ
như chẳng có sự sắp xếp nào mà tự thân nó ngay từ khi ra đời là đã thế, tự thân
người viết phải trải lòng như thế. Tác giả viết tự nhiên, độc giả cũng tiếp nhận
một cách tự nhiên.
Với Sao đổi ngôi,
đây là một bài lục bát ngắn, hai khổ tám câu có sự hoán đổi chủ thể liên hoàn
(sao - ta - sao - ta) kết hợp cấu trúc lục bát quen thuộc tạo cho thơ êm ả và
sâu lắng. Mở đầu, tác giả khai thác hình ảnh sao băng không có gì lạ lẫm “Bất
ngờ sao rụng vào không”. Sao băng là chuyện bình thường trong tự nhiên, người
ta vẫn thường cầu nguyện khi nhìn thấy sao băng để tìm may mắn. Vậy mà nhân vật
“ta” thì chỉ “vo điều ước vào trong cái nhìn”. Điều ước tưởng chừng lớn lao, kỳ
vĩ nhưng thực tế có thể… vo tròn lại. Nó được gửi gắm thông qua cái nhìn chứ
không phải thông qua lời cầu nguyện. Nhìn sao rơi xuống nhanh chóng, vậy là đủ,
vậy là đã ước xong. Điều ước nằm trong cái nhìn xa xăm mơ hồ, tưởng chừng đơn
giản lắm và cũng mong manh lắm.
Ngôi sao kia có nhận được điều ước ấy không, cũng
không cần thiết. “Ta” lúc nầy (hay đã tự bao giờ) như một hành tinh phiền phức,
chẳng biết giấu nỗi niềm của mình vào đâu nên đành “dại khờ” để gửi vào ánh sao
băng ấy. Thì đành vậy, con người bình thường gửi lời nguyện cho sao, còn hành
tinh phiền phức nầy thì biết gửi gắm vào đâu? Nhân vật “ta” có gửi cho cõi người
được không khi cõi người quá mông lung biết có ai đáng tin cậy để gửi gắm?
Thôi, thì đành gửi vào ánh sao kia vậy!
Đoạn đầu như là kể chuyện, chia sẻ, về ngôi sao và cả
về mình. Để tiếp đến đoạn sau, câu hỏi lớn được đặt ra: “Buông mình, sao rụng
về đâu?”. Có thể là không có lời đáp. Ngay cả người đọc khi tiếp nhận câu nghi
vấn nầy cũng sẽ tự trăn trở: rụng về đâu? Nhưng rồi cũng không tìm ra câu trả lời.
Chỉ có tác giả - từ câu hỏi ấy đã tự nhận: “Ta tìm mãi chẳng nơi nào bình yên”.
Sao chưa biết khi buông mình xuống sẽ về đâu, và “ta” lúc nầy cũng thế. Nhân vật
trữ tình đứng trong tâm thế đau đáu hoang mang. Tìm ở đâu, đến bao giờ, và thế
nào là bình yên đúng nghĩa? Thật khó, nên tìm mãi chẳng xong! Những thi ảnh lần
lượt được ghi lại như bất chợt vụt hiện ra trong tâm khảm nhân vật “ta” hay người
viết.
Sao băng đến rồi đi, chỉ có buồn phiền vẫn còn ở lại.
Tác giả tự ví mình như sao, sao thì băng qua đời còn người thì băng qua nỗi buồn.
Ta chỉ đành làm thế thôi, chỉ có thế mới đối diện được nỗi buồn triền miên của
kiếp nhân sinh. Và khi ấy, vô tình thay, may mắn thay, ta lại được “Hiểu điều
đã mất tự nhiên mãi còn” như một sự tiếp thu, nhìn nhận những điều vốn hằng hữu
mà ta đã mãi loay hoay chưa thấy. Sao băng qua là mất, nhưng ánh sáng kia vẫn
sáng mãi trong lòng người. Kiếp người mấy mươi năm cũng hết, nhưng có những thứ
không thể phai mờ được.
Từ hình ảnh ngôi sao băng và thực tại đời người mà Thu
Nguyệt đã đẩy ý tưởng lên đến độc đáo, phảng phất triết lý Phật giáo. Nhà thơ
đã tìm được (hay là nhận ra) chính mình trong cái đống ngổn ngang của cuộc sống,
ta là sao mà sao cũng là ta, và đều là những cá thể tự do trong hành trình đằng
đẳng chưa biết điểm dừng. Cuộc đời thay đổi, nhưng không sao cả, chỉ cần “băng
qua”, chỉ cần “hiểu điều đã mất tự nhiên mãi còn” là đủ.
Mượn “sao” để nói về “ta”, và rồi từ “ta” lại suy nghiệm
đến “sao”, Thu Nguyệt đã khéo léo sắp đặt những hình ảnh, chi tiết, những động
từ mạnh để tạo nên sự hấp dẫn trong cách diễn đạt. Ngay cả việc chuyển đoạn giữa
đoạn đầu và đoạn sau cũng là sự tinh tế của nhà thơ, một đoạn mang tính chất
ghi chuyện, bất chợt vụt sang một đoạn trăn trở để rồi nghiệm ra. Bài thơ hiện
lên một nỗi buồn khó diễn tả cho xuôi, một suy tư khó trả lời cho tròn. Chính
vì thế nó đã tạo ra một “khoảng trống” mơ màng và cứ ngân vang mãi trong lòng
người đọc.
VĨNH THÔNG
______________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét