Khi mới
học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn. Cuốn đầu do Nxb.
Thăng Long tái bản năm 1960, được đóng bìa dày thành một bộ sách 5 tập. Cuốn
sau là bản in lại của Nxb. Hoa Tiên năm 1968.
Những hiểu biết ban đầu của tôi
về văn học hiện đại là từ hai cuốn sách đó. Nhưng hồi đó tôi chưa đọc hai cuốn
sách một cách hệ thống - đọc một mạch, “trọn gói” từ đầu đến cuối. Tôi chỉ đọc
từng chương, từng bài, đọc nhảy cóc; ở trường thầy giáo nhắc đến nhà văn, nhà
thơ nào thì về nhà lật tìm chương viết về người đó, như đọc một từ điển về các
nhà văn. Một lần, nhân có người nói Quảng Ngãi quê tôi sinh ra nhiều tướng lĩnh
hơn là văn nhân, tôi mới lục tìm trong hai cuốn sách đó, thì thấy rằng trong 79
tác giả được Vũ Ngọc Phan nhắc đến và 46 thi nhân được Hoài Thanh và Hoài Chân
vinh danh, chỉ vỏn vẹn ba người quê Quảng Ngãi: Tế Hanh, Bích Khê và Nguyễn Vỹ.
Về sau này, tôi đọc trong một bài viết, Tế Hanh kể rằng Quảng
Ngãi có ba dòng sông bắt đầu bằng chữ “Trà”, tính từ Nam ra Bắc: Trà Câu, Trà
Khúc, Trà Bồng. Sông Trà Câu nằm trên địa phận huyện Đức Phổ, chảy qua làng Tân
Phong của nhà thơ Nguyễn Vỹ rồi xuống cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Khúc chảy ngang
thành phố tỉnh lỵ, ở giữa hai huyện Sơn Tịnh và Tư Nghĩa, đổ ra cửa Cổ Lũy, gần
thị trấn Thu Xà của nhà thơ Bích Khê. Còn sông Trà Bồng chảy đến huyện Bình Sơn
thì tách dòng làm đôi ôm lấy làng Đông Yên của Tế Hanh như ôm một hòn đảo nhỏ
trước khi xuôi về cửa Sa Cần.
Ba nhà thơ cùng sinh ra từ một “vẻ buồn tỉnh
lỵ”, lớn lên bên những dòng sông khác nhau, bị ném vào trong bão táp của lịch
sử, đã chịu những số phận khác nhau. Bích Khê mang nội lực cách tân trong một
cơ thể ốm yếu và những chuyến tàu hóng gió trên sông Trà Khúc không cứu nổi nhà
thơ ra khỏi căn bệnh lao phổi, chỉ kịp nhìn lá cờ đỏ phất phới ngoài đường một
ngày khởi nghĩa. Tế Hanh chân thành, bình dị, lại nhờ cái nền chất liệu hiện
thực mà đi xa cùng với cách mạng, tuy cuối đời sống trong cảnh mù lòa. Nguyễn
Vỹ oái oăm hơn, cao ngạo từ thời làm thơ Gửi Trương Tửu, khiến Hoài
Thanh và Vũ Ngọc Phan khen chê đủ điều, rồi bị chà xát trong làng văn, làng báo
Sài Gòn, để nay còn được những bài thơ tìm tòi về hình thức và một bộ tiểu
thuyết sử thi tuy giá trị nghệ thuật không cao nhưng vẫn là chứng từ cho số
phận con người trong những biến động lịch sử: Tuấn, chàng trai nước
Việt.
Tuổi thơ tôi đã gặp gỡ ba khuôn mặt văn nhân đó
trong giấc mơ văn chương thời thơ ấu: đất quê mình khô cằn, người quê mình chân
chất, liệu có sản sinh ra được những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hay không.
Ngoài ba tác giả kể trên, tôi lục tìm trong sách báo, thấy có năm ba tao nhân
mặc khách gốc Quảng Ngãi, nhưng người đã mất, kẻ lưu lạc nơi xứ khác mới thành
sự nghiệp. Rồi tôi tự hỏi vậy ai sẽ tả lại thành thơ mười cảnh đẹp quê mình và
ai sẽ kể lại những nỗi đau khổ gần như bất tận của người dân nơi đây.
Địa chí văn hóa tỉnh Quảng Ngãi bây giờ dành chỗ
trang trọng cho những văn nhân ấy và mặc dù họ là nhà văn Việt Nam, họ vẫn mang
chất giọng miền Trung một thời không quay lại. Sinh ra bên những dòng sông miền
Trung, họ đã mang giấc mơ xứ sở trong tiếng nói nghệ thuật và đem giấc mơ đó
đến mọi miền đất nước.
Trong thời đại toàn cầu hóa, người ta đang nói
đến hội nhập văn hóa, đến văn học thế giới; vậy mà nay nói chuyện văn học địa
phương thì xem chừng như hơi bị lạc hậu, cổ lỗ chăng? Thế nhưng nghĩ kỹ thì
thấy có những giá trị văn học toàn nhân loại lại xuất phát từ cái nôi của một
vùng đất, một quê hương bé nhỏ. Trăm năm cô đơn của Gabriel
Garcia Marquez tái hiện làng Macondo hẻo lánh như một sản phẩm hư cấu nghệ
thuật được xây dựng từ chất liệu làng quê Atacarata của tác giả. Tuổi thơ của
Pablo Neruda gắn liền với những cánh đồng và những khu rừng ở Temulco, miền cực
nam Chi- lê và ông nói: “Temulco là cái phong cảnh của tôi, là nét chính yếu
của thơ tôi”. Còn Quê hương tan rã của Chinua Achebe thì được
khơi nguồn cảm hứng từ làng Ogidi ở vùng hạ lưu sông Niger, nơi bộ lạc Ibo sinh
sống, cũng là nơi nhà văn chào đời.
Nước Việt Nam của chúng ta là một dải đất hẹp
kéo dài từ “từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau”, từ Trà Cổ rừng dương đến Cà
Mau rừng đước (Tố Hữu). Tình cảm thống nhất đất nước không bao giờ
phai nhạt, trong trái tim người đi trên con đường thiên lý vẫn mang theo tâm
tình từ miền Bắc: “Tôi theo người vượt quan san, vẽ lối mòn gìn giữ quê hương
ngăn đường giặc Hán”, như Phạm Duy viết trong trường ca Con đường cái
quan.
Nhưng tính thống nhất đó không xóa nhòa hay bào
mòn tính đa dạng của văn hóa vùng miền. Trong văn học, tác phẩm của Sơn Nam,
Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi… ở miền Nam khác với tác phẩm của Võ Hồng, Quách
Tấn, Nguyễn Văn Xuân… ở miền Trung; với tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi
Ngọc Tấn… ở miền Bắc không chỉ về nội dung thể hiện mà cả về phong cách kể
chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Họ làm nên một tài sản tinh thần vô giá của
nhân dân. Nhân dân tự hào về giới trí thức sáng tạo của mình, những người cũng
biết chăm vườn tưới cây, cũng ăn bắp ngô và khoai lang, nhưng biết cách nói lên
nỗi đau và niềm thao thức của đồng bào chung quanh đang sống trong tình cảnh
vất vả và lắm khi bất hạnh. Để được vậy, những tài năng đó cần có những khoảng
không gian rộng lớn cho sáng tạo, cần được thấu hiểu và lắng nghe trong cái môi
trường văn hóa nhiều khi chật hẹp của họ. Mặt khác, bản thân họ cũng phải tự
mình vượt qua những rào cản về tâm lý, nhất là tâm lý tỉnh lẻ, để từ chỗ đứng
của mình mà suy tưởng và tái hiện về những vần đề lớn lao của đất nước và con
người. Để mượn cách nói của Miguel Torga, nhà văn Bồ Đào Nha, văn học thế giới
chính là văn học địa phương không có những bức tường.
Đọc Chiếc cầu trên sông Drina của
Ivo Andritch qua bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, tôi khâm phục tài năng của nhà
văn, qua câu chuyện và số phận của một cây cầu, đã tái hiện bao nhiêu chuyện về
nhân tình thế thái và số phận con người ở đất nước Nam Tư những năm tháng đã
xa. Tôi từng mơ ước có một Ivo Andritch của Việt Nam. Đất nước ta từ Bắc vô Nam
cũng có vô số những cây cầu bắc qua những dòng sông, kênh rạch, mà cây cầu nổi
tiếng nhất có tên là Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Nơi đó đã trở thành vết
cắt, vết thương của dân tộc. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã đưa cầu Hiền Lương và
sông Bến Hải vào tác phẩm, như hình ảnh của một chiến tuyến. Nguyễn Tuân viết
rất hay về “sông tuyến”, nhưng nhà văn vẫn không đứng cao hơn môi trường chính
trị của ông, chỉ thấy khát vọng của dân tộc mà chưa nhìn thấu những vết thương
sâu hoáy trong lòng người kinh qua một cuộc chiến tranh khủng khiếp. Chiến
tranh đã tạo ra những nhà văn viết dưới hầm, cùng với những độc giả đọc sách
dưới hầm. Bao nhiêu tài năng dang dở.
Bây giờ cầu lại bắc qua. Ván thơm gỗ mới cho
ta gặp mình (Tố Hữu). Ta đã gặp
mình gần 40 năm. Trên bàn thờ của nhiều bà mẹ Việt Nam, tấm ảnh của hai đứa con
hai bên chiến tuyến được chưng cạnh nhau trước cùng một bát hương. Các nhà văn
Việt Nam đã chìa tay ra với Tim O’Brien, Wayne Karlin, Kevin Bowen… Mong chờ
văn học thực sự trở thành nhịp cầu hòa giải và hòa hợp.
Khi nhà văn Mạc Ngôn được giải thưởng Nobel văn
học năm 2012, một số người Việt Nam cảm thấy giải thưởng danh giá vốn ở quá xa
tầm tay với này như có vẻ gần lại. Đó không phải là vì đánh giá thấp nhà văn ấy
hay vì quá tự tin rằng văn học Việt Nam cũng sánh ngang với văn học Trung Quốc.
Thật ra, chung quy là vì con đường mà Mạc Ngôn đi đến giải Nobel cũng có nhiều
điểm tương đồng với con đường mà một số nhà văn Việt Nam đã trải qua, thậm chí
còn không khốc liệt bằng. Chất liệu thực tế mà Mạc Ngôn đưa vào tiểu thuyết
không thể nói là dữ dội hơn những gì các nhà văn Việt Nam đã trải nghiệm.
Khuynh hướng nghệ thuật hiện thực huyền ảo mà Mạc Ngôn chịu ảnh hưởng rõ rệt
cũng không thể nói là mới mẻ và được tiếp thu nhuần nhị.
Dù sao đó là chuyện của những người làm giải.
Điều khiến chúng ta suy nghĩ là con đường mà văn học Việt Nam còn phải đi để
vươn tới đỉnh cao.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem, nếu vài ba
mươi năm hay nửa thế kỷ sau, một nhà văn Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel, người
đó sẽ nói gì khi nhận giải? Người đó sẽ nói về vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc mình
như Y. Kawabata nói về vẻ đẹp của tâm hồn Nhật Bản? Người đó sẽ nói về nỗi cô
đơn châu Á như G. G. Marquez nói về nỗi cô đơn châu Mỹ la-tinh? Người đó sẽ nói
về nỗi đau khổ của một dân tộc trải qua mấy cuộc chiến tranh, bao nhiêu người
đã ngã xuống để có hòa bình mà rồi vẫn không thôi bị kẻ ác rình rập ngoài biên
giới và hải đảo? Người đó sẽ nói về những giằng xé của đất nước khi tiếp xúc
với một nền văn minh xa lạ và phải chấp nhận những sự trả giá nhiều khi rất đắt
trên con đường hiện đại hóa? Hay người đó sẽ nói về tiếng Việt, một ngôn ngữ kỳ
diệu, mượn cách ký âm Tây phương mà lưu giữ tinh hoa dân tộc, qua số phận của
tiếng Việt mà nhìn thấy số phận đất nước?
Có thể không một dự đoán nào đúng cả. Vì 30, 40,
50 năm nữa, người Việt Nam đứng nói ở Hàn Lâm viện Thụy Điển sẽ mang một tâm
tình khác hẳn chúng ta bây giờ. Có thể những điều làm chúng ta băn khoăn, lo âu
hiện nay không còn là mối bận tâm của người ấy.
Cũng như chúng ta ngày nay, tâm tình, suy nghĩ
hẳn nhiên là không giống với những con người ba, bốn thập niên trước. Biết bao
nhiêu nước đã chảy qua cầu. Giả sử như cái máy vi tính được phát minh sớm hơn
nửa thế kỷ, thì có thể lịch sử đã khác đi một chút.
Tuy nhiên, mỗi người chúng ta, dù là viết văn
hay làm thơ, dạy học hay viết báo, cũng chỉ có một thời để sống. Ta không thể
sống cái thời đã qua. Ta cũng khó mà đón trước cái thời sẽ đến để nói với bạn
đọc ở giữa thế kỷ 21 những điều chính họ mong đợi.
Trong Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi (Hoàng
Thu Uyên - tức Phạm Công Thiện - dịch, Nxb. An Tiêm, 1969), Rainer Maria Rilke
khuyên nhà thơ trẻ Kappus đừng đọc sách phê bình và mỹ học, nhưng mười lá thư
của ông thực chất là một loại phê bình và mỹ học đặc sắc. Ông viết: “Nếu thế
gian đầy rẫy những sự khủng khiếp thì những sự khủng khiếp ấy chính là của
chúng ta; nếu thế gian đầy rẫy những hố thẳm thì những hố thẳm này thuộc về
chúng ta; nếu có những mối hiểm họa đang dàn trải trước mắt chúng ta thì chúng
ta phải cố gắng yêu những hiểm họa ấy”.
Sách Các nhà văn giải Nobel do
Đoàn Tử Huyến chủ biên (Nxb. Giáo dục, 2006) nói về Nguyễn Tuân, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao như những dấu chỉ và niềm hy vọng của một nền văn học đỉnh cao.
Nhưng tất cả họ đều đã chết. Họ đã làm xong nghĩa vụ của ngòi bút. Chúng ta
không còn có thể dựa dẫm vào thế giá của họ. Những nhà văn hôm nay đứng trước
những hố thẳm khác, những hiểm họa khác, có thứ là sản phẩm của hoàn cảnh, có
thứ là sản phẩm của chính mình. “Yêu” hiểm họa là một cách nói. Chúng ta không
thể nhắm mắt trước hiểm họa, mà phải đương đầu với nó hay ít nhất tìm cách hóa
giải nó bằng con đường của nghệ thuật.
Trong một lần tiếp xúc với bạn đọc thành phố Hồ
Chí Minh, nhà văn Robert Olen Butler, tác giả tập truyện ngắn Hương
thơm từ miền núi lạ, có nói: “Nhà văn là người sớm nhạy cảm với những bất
trắc của xã hội và tìm một cách diễn đạt khả xúc về nỗi bất an, lo lắng, dằn
vặt đó. Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh
những mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm
xúc của con người. Vì vậy xã hội càng bất an, càng cần đến văn học”.
Văn học từ một làng quê đi ra đất nước, thành
tiếng nói nghệ thuật hóa giải đau thương của dân tộc, rồi từ dân tộc đi tìm sự
đồng cảm của nhân loại, đó là con đường của một giấc mơ. Thế kỷ 21 đã qua đi
hơn một thập niên nhưng con đường của văn học Việt Nam vẫn còn dang dở. Những
khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại biên, đều dang dở. Những tài
năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa
nguyện.
Nhưng chính vì vậy mà nó có sức hấp dẫn. Đó là
sức hấp dẫn của những giấc mơ. Dù giấc mơ vẫn còn là giấc mơ.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
_______________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét