Hừng đông. Phía
chân trời rạng màu da cam, gió thổi nhè nhẹ khiến mấy tàu lá chuối trong vườn
nhà ông Bảy đong đưa. Sương đêm giăng khắp phía, trừ chỗ nồi bánh tét trên bếp
lửa hồng. Đến khoảng 5 giờ sáng ông Bảy thôi không thêm củi vào bếp, ngược
lại ông rút bớt củi ra rồi chuẩn bị vớt bánh. Nồi bánh tét luộc từ trưa hôm qua
có lẽ đã nhừ nhuyễn chắc để đến hết rằm tháng giêng cũng không bị mốc.
Bến xe
lam đầu hồi nhà ông Bảy đã bắt đầu hoạt
động, bà Bảy đi chợ cuối năm đang chen lấn với mấy người đàn bà leo lên chiếc
xe lam vừa trờ tới. Đó là xe của ông Hồ Hải, ông Hải là tài nhứt sáng ba mươi tết.
Hai thanh niên không chen với đám đàn bà mặc áo len tay xách giỏ đầu đội nón
lá, họ ngồi cạnh bác tài trên băng ghế trước. Đủ 12 người khách, ông Hồ Hải cho
xe chạy bỏ lại sau lưng một vừng khói đen hắc mùi xăng pha nhớt. Ông Bảy nhìn
theo chiếc xe lam cho đến khi nó khuất hẳn ở một khúc quanh mới vào nhà.
Ông Bảy kêu thằng
Tỵ sai nó đi mua lít rượu về để dành cúng ông bà ba ngày tết rồi còn dọn dẹp
nhà cửa, trang trí bàn thờ. Bà Bảy đi chợ từ hồi sớm cùng với mấy người hàng
xóm giờ cũng đã về. Bà than với ông Bảy:
“Chợ cuối năm
đông quá tôi chen chân không lọt, giá thì mắc gấp đôi hôm qua, may mà bánh trái
mình mua rồi chớ hôm nay không biết làm sao mà mua nữa”.
Thằng Tỵ đang
chùi bộ lư đồng cũng góp chuyện:
“Chút nữa má cho
con hai chục mua phong pháo nghen”. Nó dụ bà Bảy, bà Bảy gắt:
“Không pháo phiết
gì hết, tao chán cảnh mới sáng mùng một đã gom rác ở sân rồi”. Thằng Tỵ chưa chịu
thua, nó năn nỉ:
“Đi má, có phong
pháo mới vui, ba ngày tết mà.”. Ừ chỉ có ba ngày tết chớ bao nhiêu, dành dụm cả
năm trời để ăn tết cho ra vẻ một chút. Bà Bảy không tiếc tiền chi cho việc ăn uống
nhưng cái vụ pháo bà không ưng bụng một chút nào. Để tiền đó mua thêm yến gạo
cho vững bụng. Thời buổi chiến tranh hôm nào mà không nghe tiếng súng, bọn lính
tráng thế nào cũng xả hàng băng đạn đêm giao thừa cho coi. Nhưng nhìn vẻ mặt
năn nỉ của thằng Tỵ bà thấy tồi tội, thôi thì cho nó ít tiền mua phong pháo chuột
để ngày mai đi chùa nó đốt lẻ từng viên cho nó vui.
Ông Bảy lên đồi
sau nhà chặt một cành đào mang xuống chưng trong nhà. Cành đào lông lên mốc này
ông Bảy chọn từ ngày nó chớm tượng mấy nụ
hoa nhỏ bằng đầu cây đinh nay nụ hoa đã bung nở khoe những cánh hoa phơn phớt hồng
bên cạnh mấy chồi lộc non. Thằng Tỵ cũng đã lau và chưng bông trái bàn thờ,
xong xuôi nó phụ ông Bảy treo mấy cái thiệp cung chúc tân xuân lên cành đào rồi
đi lau nhà. Dưới bếp mùi thịt kho tàu thơm lựng bay lên tận nhà trên. Ông Bảy
chuẩn bị cúng rước ông bà, lúc ông cắm ba cây nhang lên bàn thờ ông thiên thì
tiếng pháo đã lác đác nổ phía xa xa, chuông đồng hồ điểm 5 tiếng.
Dường như thiên hạ đốt pháo nhiều hơn mọi năm, ông Bảy
nghĩ như vậy khi cúng giao thừa. Lẫn trong tiếng pháo là những tràng tiếng
súng, ông Bảy lại nghĩ chắc tụi lính bắn cho đỡ nhớ nhà. Nhưng tiếng súng ngày
càng tăng chớ không giảm, trong hàng tràng tiếng nổ “rẹt rẹt” của loại súng AR
15 là những tiếng “cắc bụp” đỉnh đạt của loại súng AK 47, thỉnh thoảng tiếng B
40 gầm lên càng làm bầu không khí trở nên căng thẳng. Bà Bảy run lập cập nói với
chồng:
“Đánh nhau rồi
ông ơi”. Ông Bảy cau mặt gắt:
“Thằng Tỵ đâu,
kêu nó xuống hầm mau”. Thằng Tỵ đứng cạnh bên ông Bảy nãy giờ, ông Bảy mải lo
nên không thấy nó. Cả nhà ông Bảy chui xuống cái hầm đào sát bếp, mùi ẩm mốc xộc
vào mũi thằng Tỵ khiến nó hắt xì hơi mấy cái liền. Ông Bảy thảy xuống nền hầm một
cái nệm và hai cái mền, còn bà Bảy khệ nệ mang xuống hầm nồi cơm và nồi thịt
kho còn âm ấm. Thằng Tỵ trải tấm nệm và nằm xuống, một lát sau nó ngủ ngon
lành. Bên ngoài tiếng súng công đồn vẫn còn nổ còn bên trong hầm ông bà Bảy
đang lo bom rơi đạn lạc.
Sáng mùng một tết
tiếng chim báo hiệu mùa xuân vẫn hót líu lo mặc cho những tràng đạn vẫn thi
nhau nổ. Nhà ông Bảy đóng cửa im lìm, ông Hồ Hải kêu một lúc mới thấy ông Bảy lọ
mọ ra mở cửa:
“Nhà anh chị có
tản cư không hay là qua nhà tui đi chung chiếc xe lam?”. Ông Hải hỏi ông Bảy với
khuôn mặt lo lắng. Ông Bảy ngẫm nghĩ:
“Giờ
biết chạy đi đâu hả chú, tui thấy bom đạn tứ lung tung không biết tránh chỗ
nào…mà đi rồi lấy ai coi nhà lỡ có bề gì biết làm sao?”.
Ông
Hải nói thôi tôi về đi à nghen, anh ở lại giữ gìn…ông Hải nuốt mất hai tiếng “sức
khỏe” vào trong bụng. Sức khỏe có thể giữ được chớ bom đạn ai mà biết được? Ông
Hải vừa về thì nhà ông Bảy có …khách. Một
anh bộ đội mũ tai bèo vai vắt cái bòng xéo ngang lưng, khẩu AK báng gấp quàng
vai từ trên đồi đi xuống dáng gấp gáp. Thấy ông Bảy định quay vô nhà, anh lính giải phóng cười phô hàm răng trắng đều
tăm tắp:
“Con
chào bố, bố ơi cho con xin ít nước được không bố?”. Ông Bảy hơi lùi lại một
chút:
“Nước…nước
hả, ờ anh vô nhà đi rồi tui lấy cho.”. Anh lính giải phóng ngó trước ngó sau rồi
mới vô nhà. Anh dợm hỏi:
“Nhà
ta nhiều người không hả bố?”. Ông Bảy quay sang anh bộ đội:
“Chỉ
có vợ chồng tui và thằng nhỏ chớ đông đúc nỗi gì?”. Anh lính giải phóng nhìn
lên nhà trên, trên vách ván chủ nhà đóng một cây đinh treo bức hình lộng kính.
Trong ảnh một anh lính đang làm dáng với cái mũ bê rê đội xéo trên đầu, mắt kiếng
đen tay chống nạnh. Anh bộ đội hỏi:
“Ảnh
ai đây hả bố?”. Ông Bảy nhìn theo tay chỉ của anh bộ đội, ông hơi mím môi:
“Thằng
con tui đi quân dịch…mà nó chết trận hồi năm ngoái rồi”. Anh bộ đội hỏi tiếp:
“Anh
lính cộng hòa này bao nhiêu tuổi hở bố?”. Ông Bảy buồn buồn:
“Lúc
chết nó mười chín tuổi năm tháng chẵn”. Anh bộ đội trầm ngâm:
“Bằng
tuổi con”. Anh nhìn cây đào, mắt anh sáng lên:
“Bố
có cành đào đẹp quá.”. Nói xong anh tiến lại cành đào, tay anh nâng từng cánh
hoa đào lên ngắm nghía. Anh nói tiếp:
“Con
quê Hà Nội, năm nào bố mẹ con khó khăn đến mấy cũng cố mua bằng được cành đào,
năm nay không biết trời rét như vậy đào có kịp nở không nữa?”. Mắt anh bộ đội
hơi nheo lại khi kể cho ông Bảy nghe chuyện nhà mình. Thằng Tỵ từ dưới nhà bếp
đi lên, thấy khách nó dợm quay xuống. Anh lính giải phóng cười với Tỵ:
“Anh
chào em”, nụ cười anh bộ đội thân thiện khiến thằng Tỵ hết e ngại, nó cười đáp
lại:
“Anh
là lính VC hả?”. Tỵ hỏi, anh bộ đội giải thích:
“Chỉ
có Ngụy mới gọi bọn anh là Việt Cộng, bọn anh là giải phóng quân”. Rồi anh nói
tiếp:
“Em
tên gì, đang học lớp mấy?”. Thằng Tỵ thấy anh lính giải phóng thân thiện hỏi
han, nó trả lời có chút vui vẻ:
“Em
tên Tỵ bởi vì là tuổi con rắn đó anh, em đang học lớp đệ ngũ”. Anh bộ đội xoa đầu
Tỵ:
“Thằng
em anh cũng bằng tuổi em, nó tên là Hải còn anh tên Hưng”. Thằng Tỵ hỏi:
“Anh
Hưng ơi anh ăn cơm chưa?” quay sang ông Bảy, Tỵ hỏi:
“Ba,
con lấy bánh tét mời anh Hưng ăn nghe”. Không đợi ông Bảy trả lời, thằng Tỵ nắm
tay anh bộ đội:
“Đi
anh, xuống nhà dưới ăn bánh tét với em”.
Ông
Bảy nhìn hai người đi xuống nhà bếp lòng ông rộn lên một cảm xúc khác lạ. Nếu
thằng hai còn sống nó cũng tầm cỡ chú bộ đội này, không biết lúc còn sống thằng
hai đi hành quân có được người ta đối xử tử tế không? Nghĩ như vậy ông Bảy động
lòng trắc ẩn với cảnh thanh niên thời chiến tranh, ông đi xuống nhà bếp lục tìm
cái can nhựa hai mươi lít. Ông hỏi anh bộ đội:
“Tui
không dám hỏi e đụng đến bí mật quân sự, tui hỏi chú cái can này chứa nước đủ
dùng không?”
Anh
bộ đội đang ăn bánh tét với thằng Tỵ, hai người vui vẻ trò chuyện với nhau, anh
bộ đội trả lời ông Bảy:
“Tốt
quá bố ạ, khi hết con lại xuống nhà bố xin thùng khác”. Ông Bảy gọi bà Bảy:
“Bà
ơi, bà đâu rồi”. Bà Bảy nãy giờ ngoài nhà trại nơi chứa những thứ không cần
dùng nhưng “bỏ thì thương còn vương thì nợ”. Bà thấy thằng Tỵ ngồi ăn bánh tét
với một thanh niên mặc đồ màu cỏ úa, bà đánh mắt ngầm hỏi ông Bảy là ai? Ông Bảy
nói:
“Chú
bộ đội trên giông nhà mình…bà nè bà sắp cho tôi chục đòn bánh tét”. Anh bộ đội
đứng dậy:
“Con
chào mẹ ạ”. Bà Bảy gật đầu với chú lính, bà làm theo lời chồng còn trong lòng
thì rất ngạc nhiên. Ông Bảy đón cái giỏ từ tay vợ, ông nói với anh lính giải
phóng:
“Tui
biết chú không phải chỉ một mình, nhà tui không có gì nhiều gởi mấy chú chục
đòn bánh tét ăn lấy thảo”.
Anh
bộ đội mắt sáng lên nhưng anh ngần ngừ:
“Cám
ơn bố mẹ, con sợ không tiện cho gia đình, để con về hỏi đơn vị…”. Ông Bảy cười
xòa:
“Không
cần phải hỏi, để lát nữa tui xách lên giông nhà nói phụ chú một tiếng là ổn
thôi.”. Anh bộ đội đưa mắt về phía thằng Tỵ, anh chưa kịp nói Tỵ đã dành:
“Ba
để chút nữa con xách lên với anh Hưng cho”.
Anh
lính giải phóng giờ mới yên tâm:
“Bánh
tét của bố mẹ ngon quá, lần đầu tiên con được ăn, con cảm ơn bố mẹ. Ngoài con tết
đến chỉ gói bánh chưng, không biết năm nay mẹ con có xoay được cân nếp cái hoa
vàng nào để gói bánh không nữa”. Đôi mắt anh bộ đội xa xôi, chắc là anh nhớ
nhà, ông Bảy thấy thương người thanh niên xa lạ như thể thương thằng con chết
trẻ của mình.
Những
ngày sau tết Mậu Thân thằng Tỵ cứ lên
giông nhà chơi với cánh bộ đội anh Hưng. Ông Bảy la ghê lắm nó mới chịu về nhà.
Tỵ khoe với ông nó và anh Hưng kết nghĩa anh em, “anh Hưng hẹn con bao giờ đất
nước thống nhất ảnh sẽ đưa con về Hà Nội ăn tết” Tỵ nói tiếp. Nhưng chiến sự
ngày càng khốc liệt, gia đình ông Bảy cuối cùng cũng phải tản cư đến nhà một
người bà con ở tạm, từ đó Tỵ không gặp người anh kết nghĩa nữa.
Bốn
mươi lăm năm sau ông Tỵ về hưu. Trong đời công tác, ông đã nhiều lần đi Hà Nội,
mỗi khi có dịp đi ngang qua phố Nguyễn Du ông lại nhớ đến chuyện người anh kết
nghĩa lính giải phóng năm xưa. Nhà anh Hưng ở phố này nhưng biết đâu mà tìm giữa
biển người mênh mông?
Về
hưu ông Tỵ lên đồi nhà trồng dăm trăm gốc cà phê Ca ti mo, công việc nhà nông
khiến ông vui và khỏe hơn hồi làm quan chức. Miếng đất của ông Tỵ nằm cạnh miếng
đất của nhà ông Thìn là con ông Hồ Hải xe lam, nay ông Thìn bán lại cho người
khác. Tháng 7, người mua thuê xe máy ủi
san đất để làm nhà. Hôm xe ủi đến không hiểu sao ông Tỵ thấy nóng trong lòng.
Đang bị nhức đầu nhưng ông vẫn lên đồi coi thử xe ủi có phạm gì đến đất nhà ông
không. Ông dặn tay tài xế làm cẩn thận nếu thấy chuyện gì lạ thì báo ông ngay.
Chưa kịp về tới nhà, tay tài xế đã hộc tốc
chạy theo:
“Bác
ơi xe con ủi lộ ra mấy bộ xương người”.
Sống
lưng ông Tỵ lạnh toát, điều ông linh cảm đã xảy ra. Ông vội vã lên đồi. Đúng là
xương người, ông Tỵ cẩn thận gạt từng nắm đất để nhặt từng chút xương cốt của
người chết, chắc khoảng 5 đến 6 người đã chôn ở đồi này. Ngoài xương cốt ông Tỵ
còn tìm thấy 5 chiếc dép lốp, vài mảnh vải tăng, nắp bình đông và 1 chiếc đèn
pin bằng nhựa. Mắt ông Tỵ cay cay, chiếc đèn pin này là món quà ông tặng cho
anh Hưng năm đó… Sau khi bàn giao cho cơ quan chức năng tất cả hài cốt và vật dụng
cá nhân của liệt sĩ, ông Tỵ xin lại chiếc đèn pin ông đem về đặt ở bàn thờ cha
mẹ.
Chiều
cuối năm trước khi cúng rước ông bà, ông Tỵ và thằng cháu nội bưng một mâm cơm
lên đồi sau nhà. Cạnh gốc đào lão đang mãn khai rực một màu hồng là một cái am
sơn màu đỏ. Ông Tỵ đặt mâm cơm trước am và đốt nhang van vái, ông mời tổ chiến
đấu của người anh kết nghĩa về ăn tết với gia đình.
Thinh
không vang vọng một tiếng chim, chiều đang trôi về tối. Thằng cháu nội không biết
về nhà từ lúc nào nó đang leo dốc lên với ông, nó gọi:
“Nội
ơi, mẹ mời nội về nhà cúng rước ông bà”. Nói xong nó quay ngay xuống nhà, tay
nó vung vẩy chiếc đèn pin, ông Tỵ gọi với theo:
“Hưng,
Hưng…không được nghịch, đặt lại chiếc đèn pin trên bàn thờ cho nội”. Trả lời
ông Tỵ là tràng cười khanh khách của thằng Hưng.
Mai
là ngày mùng một tết!
VÕ ANH CƯƠNG
___________________________
ĐÓN ĐỌC BÔNG TRÀM CHUYÊN ĐỀ ĐẶC BIỆT
CHÀO XUÂN BÍNH THÂN & NGÀY THƠ VIỆT NAM 2016
>> Vui lòng nhấp chuột vào hình ảnh phía dưới để vào mục lục số đặc biệt <<
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét