Qua 143 năm (1802-1945) hình thành và phát triển, kiến trúc cung đình Huế đã để lại cho mảnh đất này một dấu ấn kiến trúc mang đậm trí tuệ dân tộc. Nhìn vào di tích Huế ngày nay có thể thấy rằng, tất cả các yếu tố như vật liệu xây dựng, mô-tip mỹ thuật v.v, đều có thể phản ánh về một phong cách kiến trúc Việt Nam vào thế kỷ XIX với những đặc trưng cơ bản nhất ở nhiều góc độ khác nhau.
Thơ văn thể hiện trên kiến trúc là một tiêu biểu về giá trị thẩm mỹ, thể hiện một phong cách trang trí giàu tính văn hóa của các kiến trúc cung đình Huế. Ngày 19.5.2016, Tại Hội nghị toàn thể lần thứ 7 của Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (gọi tắt là MOWCAP), thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã được công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Trên các công trình kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế thường có các ô chữ Hán (chính là các bài thơ, đoạn thơ, câu thơ) thường được trang trí xen kẽ với các họa tiết hoa văn kỹ hà, thảo mộc, linh vật, chim thú cách điệu với phong cách ước lệ. Mô-tip trang trí này thường được gọi là nhất họa nhất thi. Nếu như các họa tiết mang tính khái quát cao về thẩm mỹ, về nhận thức thế giới khách quan thì các ô chữ Hán lại mang tính cụ thể về tư tưởng thông qua nội dung của các ký tự này, đồng thời cũng khái quát được thế giới nội tâm của con người, của chủ nhân các công trình kiến trúc này. Điều đó cũng nói lên được rằng, kiến trúc chính là phần thể và thơ ca được khắc chạm ở đây là phần phách, tạo nên một chỉnh thể cân đối, hài hòa của kiến trúc Huế.
Đây là một loại hình di sản vừa có tính vật thế, vừa có tính phi vật thể rất độc đáo của Việt Nam.
1. Hiện trạng
Tồn tại trên các công trình kiến trúc, thơ văn trên di tích thật sự đã trở thành một bảo tàng vật chất khổng lồ về văn học, thật sự trở thành những minh chứng thuyết phục về một thời kỳ phát triển rực rỡ của văn học Trung đại Việt Nam. Các nhà nghiên cứu văn học sử cũng đã thừa nhận về thời kỳ rực rỡ này khi làm một phép thống kê về trước tác của các tác gia văn học thời Nguyễn. Chỉ trong một giai đoạn so với toàn bộ chiều dài lịch sử dân tộc, thời Nguyễn đã để lại khối lượng tác phẩm văn chương nhiều hơn so với các thế kỷ trước đó cộng lại. Phải chăng chính sự thịnh trị văn chương vào thời Nguyễn đã hình thành nên một hình thức tồn tại khác của thơ văn đó là lưu trữ trên kiến trúc.
Có thể thấy rằng, từ Minh Mạng trở đi, hầu như mỗi vị vua đều là một thi sĩ, cụ thể như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Đặc biệt, các vị hoàng đế ở giai đoạn hưng thịnh lúc đầu như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức mỗi người là một tên tuổi lớn của nền văn học Trung đại Việt Nam. Kiến trúc Nguyễn vào giai đoạn này vì có sự ổn định tài chính, kinh tế theo đó mà cũng định hình dần về phong cách. Nguyên do này đã có tính chất quyết định cho sự ra đời của một loại hình trang trí đó là “thơ văn trên kiến trúc”.
Hiện nay, trên các công trình kiến trúc cung đình Huế hiện còn khoảng hơn 4.000 đơn vị ô hộc chữ Hán (chủ yếu là thơ, nhưng gọi chung là thơ văn). Tình trạng phân bố của các ô hộc tại các kiến trúc như sau:
- Tại khu vực Hoàng Thành, thơ văn có mặt ở các kiến trúc như Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Điện Cần Chánh (vốn từng có), Thế Miếu, Hưng Miếu, Triệu Miếu, cửa tam quan (ở điện Phụng Tiên);
- Tại lăng Minh Mạng, thơ văn có mặt ở các kiến trúc như Bi đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân, Minh Lâu, Nghinh Lương Quán;
- Tại lăng Thiệu Trị thơ văn có mặt ở các kiến trúc như điện Biểu Đức, Bi đình;
- Tại lăng Dục Đức, thơ văn có mặt ở các kiến trúc như điện Long Ân;
- Tại lăng Đồng Khánh, thơ văn có mặt ở các kiến trúc như Cung Môn, điện Ngưng Hy;
- Tại lăng Khải Định, thơ văn có mặt ở điện Khải Thành;
- Ngoài ra, thơ văn còn được thể hiện ở Di Luân Đường - Minh Trưng Các (tại Quốc Tử Giám); ở điện Long An (Tân Thơ viện); Đình Hương Nguyện (chùa Linh Mụ); ở Khải Tường lâu (cung An Định) v.v.
Sự thể hiện các bài thơ, đoạn văn qua các chất liệu khác nhau, bằng các phương thức khác nhau, bằng các lối chữ khác nhau, ở các vị trí khác nhau, tại các loại kiến trúc khác nhau vừa tạo nên sự độc đáo riêng có của phong cách kiến trúc Nguyễn ở Việt Nam.
2. Tính độc đáo về hình thức
- Thơ văn được thể hiện trên nhiều loại hình kiến trúc. Việc trang trí một cách có chủ đích ngay từ đầu làm cho thơ trở thành một thành tố không thể tách rời với kiến trúc, chuyển tải những giá trị thẩm mỹ và tư tưởng của thời đại.
Thơ văn được trang trí ở hầu hết các loại kiến trúc như điện, miếu, lâu, các, đình, môn v.v. Đặc biệt, các kiến trúc có tính nghi thức liên quan đến vị hoàng đế là Điện – Miếu chắc chắn việc thể hiện các bài thơ trên các kiến trúc được xem như là điển chương. Chẳng hạn như là nơi làm việc của các vua (điện Thái Hòa, điện Cần Chánh); như là nơi thờ các chúa, các vua (Triệu Miếu, Thế Miếu, điện Sùng Ân, điện Biểu Đức, điện Ngưng Hy, điện Long Ân, điện Long An) v.v.
- Thơ văn được thể hiện ở nhiều vị trí khác nhau trên kiến trúc.
Tại ngoại thất của các kiến trúc, thơ văn được thể hiện trên bờ nóc, bờ quyết, cổ diêm của công trình. Tại nội thất, thơ được thể hiện trên các liên ba, đố bản tại các công trình kiến trúc.
- Thơ văn được thể hiện với nhiều loại hình vật liệu và cách thể hiện:
+ Được chạm chìm, hay khắc nổi trên các liên ba bằng gỗ sau đó sơn son, thếp vàng là cách thể hiện phổ biến nhất (xuất hiện nhiều ở nhiều kiến trúc).
+ Được viết trên nền đồng rồi tráng men (pháp lam) với nhiều màu sắc (chữ màu đen, xanh, vàng trên nền có màu tương phản) cũng là một dạng thường thấy (như ở phần mái Ngọ Môn, điện Thái Hòa, tam quan điện Phụng Tiên, Bi đình lăng Minh Mạng v.v).
+ Được đắp vôi vữa khảm sành sứ (như ở lăng Khải Định, Khải Tường Lâu, Thái Bình Lâu).
+ Bên cạnh đó, thơ văn còn được chạm khắc thếp vàng chữ hoặc sơn chữ những nền không sơn son thếp vàng (như ở điện Long An, điện Long Ân, Nghinh Lương Quán).
+ Ngoài ra, thơ văn còn được cẩn xà cừ trên ván gỗ, tuy chỉ xuất hiện ở một số trường hợp cá biệt (như ở điện Long An) nhưng đã để lại một giá trị độc đáo.
- Thơ được thể hiện với sự có mặt của nhiều thể thơ phổ biến thời bấy giờ.
Thơ xuất hiện như ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú.
+ Có khi, các ô chữ là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt
+ Có khi chỉ là hai câu của một bài thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú thường được thể hiện nối tiếp, muốn có một bài hoàn chỉnh phải ghép lại mà thành
+ Có khi cả ô chỉ là một đại tự, nhiều ô liên tục như vậy mà ghép thành một bài thơ
+ Cũng có khi một ô lại là một rừng chữ với sự xếp đặt cầu kỳ (như hai bài thơ hồi văn kiêm liên hoàn của vua Thiệu Trị ở đố bản tại điện Long An).
- Thơ văn được thể hiện với đầy đủ các thể thư cơ bản của nghệ thuật thư pháp.
Hầu hết thơ được thể hiện tại các kiến trúc đều là những bức thư pháp có giá trị. Thư pháp được xem là một loại hình nghệ thuật cao siêu (Nhất tự, nhì tranh, tam sành, tứ kiểng). Hán tự có 5 thể chính là Triện thư 篆書, Lệ thư 隸書, Khải thư 楷書, Hành thư 行書 và Thảo thư 草書. Đó cũng chính là những thủ pháp chính của cách viết thư pháp. Thơ trên kiến trúc cung đình Huế hội đủ cả 5 thể thư này, đó là một giá trị đặc sắc.
Chính tất cả những đặc điểm mang tính hình thức này đã nói lên sự tinh tế đạt đến trình độ nhận thức văn hóa, nhận thức thẩm mỹ cao trong lao động sáng tạo của con người thời bấy giờ.
3. Tính độc đáo về nội dung
Không chỉ là những chi tiết trang trí thực dụng cho ý đồ thẩm mỹ, thơ văn được trang trí trên kiến trúc cung đình Huế còn có những giá trị nội dung, giá trị tư tưởng và những phẩm chất nghệ thuật không thể phủ nhận từ giác độ là một văn bản học.
- Thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn trước hết, phản ánh rõ bản chất về phương cách sử dụng có đặc trưng “mô phạm và nghi thức” của chủ thể sáng tạo. Nó là ngôn ngữ nghệ thuật nhưng để nhằm phù ứng với nội dung có tính cách tuyên truyền, giáo huấn, bày tỏ hoài bảo nên đã bị “nghi thức hóa”. Thực tế này diễn ra rất phổ biến và có tính lặp lại. Do vậy, đặc điểm sử dụng ngôn ngữ ở đây đã chỉ ra rằng, Thơ trên kiến trúc cung đình Nguyễn là những tuyên ngôn bằng thơ, nhất là ở các kiến trúc có tính nghi thức, điển chế. Chủ thể sáng tạo đã dùng thơ như một công cụ để tuyên truyền cho chế độ và những ý thức hệ chính trị của chế độ.
- Thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn đã thể hiện sự đa dạng trong nghệ thuật tu từ (từ chương). Sự đa dạng trong nghệ thuật tu từ đã cho thấy ngôn ngữ thơ trên kiến trúc cung đình Nguyễn rất có giá trị về nghệ thuật. Đặc biệt, những cách diễn đạt ẩn dụ (ẩn dụ hình ảnh; dẫn ngữ điển tích, thành ngữ, thơ văn và sách vở) đã chứng tỏ chủ thể sáng tạo là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu kinh sách và giỏi chữ nghĩa.
- Trên cơ sở những đặc điểm sử dụng ngôn ngữ, đặc điểm nghệ thuật tu từ, có thể rút ra một số đặc điểm nội dung cơ bản của thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn như sau:
+ Tôn vinh công trạng mở mang và thống nhất bờ cõi của vua chúa Nguyễn.
+ Thể hiện những quan niệm trong tư tưởng, nhất là tư tưởng Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị làm nền tảng để cai trị đất nước.
+ Khẳng định một chế độ quân chủ mới với những đổi mới về chính trị, xã hội, khẳng định nền văn hoá dân tộc.
+ Ca ngợi cảnh thái bình, thịnh trị, cảnh đẹp của đất nước.
+ Bày tỏ sự quan tâm đến đời sống của dân chúng, ước mơ đất nước thái bình, trăm họ yên vui.
- Cũng có thể cho rằng, ngôn ngữ thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn là một hình ảnh thu nhỏ của một cồng đồng ngôn ngữ là giai cấp quý tộc, của tầng lớp đại diện cho tiếng nói triều đại Nguyễn. Xuất phát từ những nhu cầu nhận thức và phản ánh và đã làm nên một hiện tượng nghệ thuật đặc biệt. Đó là cơ sở để nghiên cứu về một loại hình về thơ văn mang tính nghi thức, đồng thời nó cũng có thể là cơ sở để nghiên cứu về nghi thức, điển chế của cả một giai đoạn lịch sử. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn là sự phản ánh rất tập trung về “bức chân dung” chế độ và triều đại sản sinh ra nó.
*
Tóm lại, thơ văn trên kiến trúc cung đình Nguyễn đã góp phần làm nên phần hồn, làm tăng tính văn hóa cho các công trình kiến trúc thời Nguyễn. Đó cũng là bản chất tâm hồn của những chủ nhân kiến trúc với những lý tưởng xã hội và ước mơ triều đại. Hệ thống thơ văn này đã trở thành thông điệp để nối quá khứ và hiện tại, quá khứ và tương lai trong một hành trình bất tận của cuộc kiếm tìm và khám phá cái đẹp.
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
____________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét