Sao
mai vừa mọc, sương đêm còn bao trùm khắp phía, se se lạnh, thỉnh thoảng có cơn
gió nhẹ thổi qua, ông Sáu và thằng Tám ra bến đón đò đi Tân Châu. Nhờ ánh sáng
yếu ớt từ mặt sông phản chiếu mà cảnh vật xung quanh bớt u tối hơn. Chừng tàn
điếu thuốc thì đàng xa lù lù một chiếc đò chèo với giọng rao cố hủ:
- Đò
hơm! Đò… hơm!
Ông
Sáu và thằng Tám bắt tay làm loa kêu:
-
Đò! Đò!...
Đò
ghé vô. Đó là chiếc ghe nhỏ có mui kín do một người đàn ông trạc năm mươi chèo.
Ông ta theo nghề này trên hai mươi năm. Mùa khô, lúc con nước lớn chảy yếu, mỗi
mái chèo chiếc ghe đi ngọt. Còn mùa nước lũ phải núp theo doi, vịnh chèo cập bờ,
đò đi rất chậm. Do lâu năm trong nghề nên có kinh nghiệm, khi đi và về ông chọn
đúng con nước để hạn chế tối đa lực cản.
Ông
Sáu và thằng Tám bước vào mui. Có chừng năm sáu người đàn ông lẫn đàn bà ngồi
dưới ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn ve treo lủng lẳng. Họ bắt đầu nói chuyện.
Cánh đàn ông ra ngồi phía sau lái để dễ bề hút thuốc.
Bà
Bảy thuật lại hôm qua con heo nái của bà Tư chuyển bụng gần một ngày chưa chịu
đẻ. Nó cắn phá tứ tung, ai lại gần cũng táp, hung dữ khác thường. Chừng đẻ được
chỉ có năm con mà chết trong bụng hết hai. Chắc lỗ vốn, tấm cám dạo này đắt đỏ,
nuôi heo cũng bấp bênh lắm. Bà Hai nói mấy mụt măng tre tàu để dành đám giỗ, hồi
nãy coi lại đã mất. Quân nào ăn ở bất nhơn, đến măng mà cũng trộm, bộ đói thụt
lưỡi rồi chắc? Chị Ba ôm bó lãnh Mỹ-A đi chợ bán, phụ họa:
-
Hơi đâu mà than thiếm ơi! Lúa chín ngoài đồng nó còn lắt bông nữa kìa. Phải ngủ
giữ, nếu không có nước ăn rơm.
Mỗi
người một câu khiến ông lái đò cũng quên đi mệt nhọc. Thỉnh thoảng tham gia vài
câu để lấy lòng khách, đại khái:
-
Thời buổi gạo châu củi quế. Cái gì cũng phải giữ. Tối, tôi còn đem cây chèo cất
vô mui mà ngủ. Lo xa cho chắc.
Bọn
đàn ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện mùa màn. Anh Tư Đực mùa rồi trồng đậu xanh
trúng quá, sắm cho bà vợ chiếc xe máy đầm hãnh diện với người ta. Còn ông Hai
Cương đầu trên, trồng thuốc đất thấp gặp mưa già bị oi chết cây bộn coi mòi
không khá lắm. Tội nghiệp, sắp tới đám nói thằng con trai lớn chộn rộn dữ
nghen!
Nhờ
những mẫu chuyện trời trăng mây nước đó làm bùi tai thằng Tám, nó dựa lưng vào
be ghe đánh một giấc ngon lành, trên tay cầm quyển tập cũ nát ghi chép những món
cần mua. Lần nào đi chợ nó cũng cẩn thận như thế. Quyển tập chỉ còn vài trang
trống, phỏng chừng đã xài cả năm rồi.
Ra
tới sông cái quang cảnh như sáng hơn nhờ phản chiếu mặt nước được nhiều hơn. Bà
Bảy nhìn ra phía trước chỗ có vật đen đen, bất giác kêu:
-
Ông đò ơi! Hình như “Ông Nược”!
Vài
ba người nhốn nháo:
-
Đâu?... Đâu?
Chiếc
đò chòng chành, ông Tư hoảng hồn la:
-
Coi chừng chìm! “Ông Nược” đâu bất tử vậy? Nó chỉ ở gần mấy chỗ lò rèn thôi hà!
Có
bà hỏi:
-
Sao vậy?
Ông
nói:
-
Nó ở dưới nước miết cũng lạnh chớ! Lạnh thì nhảy lên lò rèn hơ, nên nó khoái
khúc sông nào có lò rèn.
Mấy
bà xầm xì, kẻ tin người không. Khi đò gần tới vật đen ấy, thì ra là giề lục
bình, ai nấy cười ngất.
Ông
lái cho đò đi gần bờ, núp mấy đầu doi mà chèo. Nước vừa mới chớm lớn nên chảy
ngược còn mạnh. Gần đến đầu Cù Lao Lớn thì trời hừng sáng. Nhìn lên bờ mấy bụi
điên điển ẩn mình trong đám mù sương. Xa xa tiếng bìm bịp kêu nước lớn làm ông
lái đò mừng rơn vì nước bắt đầu chảy yếu. Một chập sau có chiếc tàu binh đen
thui chở ba bốn lính Tây chạy ngược chiều ngoắt đò cập lại, nói xí xô xí xào chẳng
ai biết gì, đưa mắt nhìn nhau. Một thằng đen thùi lùi như lọ chảo bước qua đò
khiến chòng chành muốn lật. Hắn ta đảo mắt nhìn khắp khoang. Thấy chị Ba ôm xấp
lãnh Mỹ-A đen bóng, cặp mắt trắng dờ tương phản màu da của nó nhìn chăm chăm rồi
đưa tay chỉ vào lì xì “kec sơ cờ xe?”, mấy bà ngơ ngác. Đoán chừng nó hỏi cái
gì, chị Ba vổ vổ vào chiếc quần lãnh đang mặc. Nó nhìn cái quần chị rồi nhìn xấp
lãnh gật gật tỏ vẻ đã hiểu. Kế nó đưa mắt nhìn ra sau lái, chỗ cánh đàn ông. Thấy
thằng Tám cầm quyển tập trên tay nó có vẻ ngạc nhiên và nghi ngờ, bước tới chỉ
vào, giọng hơi gắt: “kec sơ cờ xe?”. Thằng Tám bật tiếng Tây rôm rốp làm mọi
người thán phục, ông Sáu nghe lõm bõm: “can net đờ bốc”, “dơ que ô mạc xê buộc
a xách tê ken cờ xôi”…mèn ơi sao dòn khứu! Hồi nào tới giờ mới nghe nó nói tiếng
Tây. Nhưng coi mòi thằng Tây không tin, lấy cuốn tập trên tay thằng Tám lật tới
lật lui, trong viết toàn chữ Quốc Ngữ nên cũng không xem được gì, liền bước ra
trước mui ghe đưa cho tụi Tây kia coi thử. Nói với nhau lào xào gì đó một chập.
Cuối cùng cột dây dòng ghe về chợ. Mọi người rất lo lắng, một vài bà van vái Trời
Phật phù hộ tai qua nạn khỏi, cánh đàn ông bình tĩnh hơn nhưng nét mặt cũng ít
nhiều căng thẳng. Ông Sáu, lên tiếng trấn an:
-
Chắc không sao đâu! Nó chỉ nghi ngờ quyển tập đó thôi, đừng sợ.
Mấy
bà quay sang chĩa mũi dùi vào thằng Tám. Bà Bảy nói:
-
Đi chợ mua đồ thì ráng nhớ, có mấy món đâu mà sổ với sách. Báo hại quá trời!
Thằng
Tám ngồi làm thinh, không biết nói chi. Tính nó hay quên, lo xa vô tình mang họa.
Biết vậy chịu khó viết ra rồi học thuộc lòng thì đâu gặp rắc rối. Bà Tư “đế’
thêm:
-
Làm như người hay chữ, phen này có bị nhốt tao chữi “thụt chịnh”!
Bà Hai
lầm thầm:
-
Ông bà khuất mặt linh thiên, độ con bình yên vô sự xin cúng con gà…
Lòng
buồn mênh mang, thằng Tám đưa mắt nhìn mặt sông buổi sáng lấp lánh ánh nắng ban
mai nhấp nhô từng con sóng nhỏ. Nó không lo bị bắt. Chút nữa đến đồn chắc có
thông ngôn dịch lại những gì nó viết. Tụi Tây không tin nó đã đành, chẳng lẽ
thông ngôn của họ mà cũng không tin? Nghĩ vậy nên cảm thấy vững dạ.
Đò
được dòng về đậu dưới bến đồn Tây. Bọn chúng dắt thằng Tám lên đồn, những người
khác phải ở dưới đò. Đi được vài chục thước gặp Tây quan ba đi tới. Bọn chúng
giao quyển tập, nói với nhau gì đó. Quan ba nói chuyện với thằng Tám một lúc
thì có một ông chừng sáu mươi tuổi bận âu
phục đi ngang, thằng Tám liền chào coi bộ cung kính. Ông ta dừng lại, quan ba
cũng có vẻ nể trọng, quay ngang “bông-rua” rất nồng nhiệt. Hai người nói chuyện
vài câu, rồi ông nói chuyện với thằng Tám, sau đó lại nói chuyện với quan ba.
Thế là thằng Tám được thả cùng với quyển tập. Nó chào kính cẩn ông kia và cúi
chào quan ba rồi đi về đò. Chừng ấy mọi người như trút gánh nặng. Họa thành
phúc, nhờ được tàu binh dòng mà đến chợ được sớm! Bà Tư và bà Bảy cảm thấy hối
hận cho những lời hằn hộc của mình lúc nãy.
Đò
được chèo đến đậu tại đầu doi Bang Tống. Mọi người lên bờ đi chợ, lúc này mặt
trời đã khá cao, gần tết cảnh mua bán kèo cò ngã giá diễn ra tấp nập. Ông Sáu
đi gần thằng Tám hỏi:
-
Cái ông An Nam hồi nãy là ai vậy?
-
Dạ, thầy tui đó.
-
Hình như ổng có uy quá mậy?
-
Thầy dạy tui năm tiếp liên. Nói tiếng Pháp như bẻ cây. Tụi nó nể lắm!
-
Rồi làm sao nó thả mầy?
-
Thầy bảo lãnh. Nói tui là học trò, hiền lắm, quyển tập này để ghi mấy thứ cần
mua thôi. Vậy là thằng quan ba tin liền. Còn tui nói muốn thụt lưỡi, như không!
Ông
Sáu thở dài nhìn xuống chân nói:
-
Thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc khắp nơi. Nghe đâu tụi nó bắt được nhiều người
làm quốc sự lắm, nên sanh ra đa nghi. Dân quê mình phần đông dốt nát, đâu có ai
đi chợ mà cầm sổ, dòm bộ gió mầy chắc nó nghi làm liên lạc. Thôi, từ nay về sau
ráng nhớ mấy món định mua. Họa vô đơn chí, biết đâu mà lường mầy ơi!
Lời
lẽ chân tình của ông Sáu làm thằng Tám cảm động. Ông nói rất đúng. Tình hình an
ninh bây giờ rất kém. Bọn Tây thường xuyên bị phục kích, hao hớt cũng nhiều.
Bên châu Âu thì nước Pháp đang bị nước Đức tấn công dữ. Nhựt trình gần đây đăng
nhiều tin cho thấy mẫu quốc lâm nguy nên tụi Tây đăm hoảng thành ra đa nghi, bắt
bậy bắt càn.
Nó
đưa mắt nhìn ra sông, xuồng ghe tấp nập.Từng giề lục bình lơ đểnh trôi như cuộc
sống người dân quê, âm thầm với lũy tre xanh, đổ mồ hôi trên cánh đồng lúa, sống
những ngày đạm bạc, tủi hờn dưới ách thực dân. Mong sao thời thế xoay dần để những
gì xảy ra hôm nay sẽ lui vào quá khứ…
Long Khánh
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét