Ông Hai Nhà Láng tên thật là Trần
Văn Nhu (còn gọi là ông Hai Nhu). Ông là con trưởng nam của Quản cơ Trần Văn
Thành. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước thương
dân.
Trần Văn Nhu sinh ra trong thời
buổi đất nước bước vào giai đoạn suy yếu tột độ và thực dân Pháp đang đe dọa
xâm lược nước ta. Giữa lúc ấy, triều Nguyễn ra lệnh thực hiện các chính sách đồn
điền tại An Giang. Gia đình ông là một trong các di dân lập làng đến An Giang.
Lần đầu tiên Phật Thầy Tây An
(tên thật Đoàn Minh Huyên) và Đức Cố Quản Trần Văn Thành đã đến trung tâm Láng
Linh (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) lập một trại ruộng để khai khẩn
đất hoang, đặt tên là Bửu Hương các (Bửu Hương: tên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ; các:
ruộng), người dân quen gọi là trại ruộng Phật Thầy (1) (ngày nay ghi là trại ruộng
Bà Nguyễn Thị Thạnh ?!).
Tài liệu truyền miệng
cho biết: Cậu Hai Nhu rất giỏi chữ Nho (chữ Hán) và giỏi võ nghệ. Nhưng không
thấy đề cập mức độ khai khẩn vùng đất này. Thậm chí đóng vai trò như thế nào
trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa ? Chúng ta chỉ nghe nói đến Trần Văn Chái (Tư Chái)
và các ông Đội. Nhưng từ sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thì trong gia đình Đức cố
Quản Trần Văn Thành có hai người đóng vai trò quan trọng trong việc khai phá và
mở mang làng Thạnh Mỹ Tây huyện Châu Phú sau này: Bà Nguyễn Thị Thạnh (vợ Quản
Cơ Trần Văn Thành) và con trưởng nam: Trần Văn Nhu.
Sau cuộc khởi nghĩa
Bảy Thưa, gia đình Đức Cố Quản Trần Văn Thành về trú ngụ tại Bửu Hương các mà
xưa kia Đức Cố từng khai phá. Vào thời buổi đó chưa có kênh xáng Vịnh Tre (kênh
Tri Tôn do Pháp đào vào những năm 30 của Thế kỷ XX) thông vào. Con đường duy nhất
đi vào Bửu Hương các lúc này chỉ có rạch Cái Dầu.
Sống trong điều kiện
khắt nghiệt, hầu như bị cô lập vớí bên ngoài. Nhưng người trong dòng tộc, gia
đình và các nghĩa binh kể cả tín đồ trong đạo vẫn trụ được nơi miền đất Láng khắt
nghiệt cũng là điều dễ hiểu. Dù không bạo động chống Pháp, nhưng tinh thần không
hợp tác với giặc là quan niệm sống của người dân đất Láng vẫn được duy trì khá
lâu đối với cư dân vùng đất mới.
Lúc đầu nơi đây chỉ
có vài gia đình. Về sau số dân trong vùng tăng lên . Nguồn gốc đều là dân tứ xứ
đến lập nghiệp. Thực tế cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thất bại và bị đàn áp, nhưng dấu
ấn ấy vẫn còn âm vang, người ngưỡng mộ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn đến. Cuộc sống
của Ông Hai Nhu không chỉ bình thường, mà ông tiếp tục hành Đạo theo tôn chỉ của
giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương: phát phù trị bệnh cho dân trong vùng và tiếp tục kết
nạp tín đồ bằng phân phát lòng phái, với tờ giấy vàng với bốn chữ son: Bửu Sơn
Kỳ Hương. Lúc bấy giờ việc phát phù trị bệnh lôi kéo tín đồ là việc làm nguy hiểm.
Vì thực dân Pháp đã nghiêm cấm Đạo Lành (Đạo Thành) hoạt động. Nhưng ông Hai
Nhu bất chấp nguy hiểm vẫn tiếp tục hành đạo. Nhiều người mộ đạo đến quy y và lập
nghiệp. Xóm Láng ra đời. Ho sống theo tinh thần "đói ăn rau, đau uống thuốc".
Mương Ông - Bà ( để chỉ ông Hai Nhu và Bà Cố Quản) được đào để lấy nước uống và
sinh hoạt, trồng dâu nuôi tằm. Dần dần dân trong vùng nạo vét nối liền với rạch
Cái Dầu.
Năm 1899 bà Cố Quản
qua đời, ông Trần Văn Nhu tiếp tục chuẩn bị xây dựng Bửu Hương tự. Nhân ngày 22
tháng 2 ÂL (1913), kỷ niệm 40 năm ngày cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thất bại,
thực dân Pháp được mật báo, chúng bố trí lực lượng bí mật từ Châu Đốc xuống Cái
Dầu và tiến vào đất Láng đàn áp Bửu Hương tự. Qua cuộc bố ráp ấy chúng bắt đi
83 người và triệt phá Bửu Hương tự. Cuối cùng chúng kết án 56 người và đài đi
Côn Đảo 20 người. Ông Trần Văn Nhu trốn thoát (2). Ông được người thân cận đưa
ra Cái Dầu định đến Campuchia, nhưng không rõ lý do nào đó ông quyết định về Cần
Thơ và cuối cùng về Trà Bang (Rạch Giá) rồi mất tại đó năm 1914 (3).
Trong dân gian hiện
nay có thói quen gọi Bửu Hương tự là chùa Nhà Láng. Vì sao có tên gọi ấy ? Theo
lời kể các vị bô lão ngày xưa muốn lập làng phải có người đứng ra bảo lãnh và
làng phải có đình thần. Vì vậy nhiều người trong đất Láng muốn hợp thức hóa với
chính quyền thực dân xin phép lập đình làng Thạnh Mỹ Tây. Trên thực tế là
xây dựng Bửu Hương tự. Nhưng do quy mô chùa Láng lúc đó nhỏ, làm bằng tre lá.
Theo quan niệm của Bửu Sơn Kỳ Hương là tu tại gia nên chùa nhiều khi là nhà.
Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng để tránh sự dòm ngó của chính quyền thực dân nên
gọi chùa Nhà Láng. Khi chính quyền đến xét hỏi thì nói đây là nhà chứ không phải
là chùa. Láng là xuất phát từ Láng Linh. Vì vậy khi nói đến ông Trần Văn Nhu
thì dân trong vùng quen gọi là ông Hai nhà Láng.
Suy cho cùng, đối với
ông Hai nhà Láng không có những chiến công oanh liệt như Đức Cố Quản Trần Văn
Thành. Nhưng ông đã để lại dấu ấn rất đặc biệt ở vùng Láng Linh không phải từ
việc phát phù trị bệnh mà chính là hành động nhân sinh: quy tụ nhiều người đến
trú ngụ và lập ra làng Thạnh Mỹ Tây. Ông là một trong những người chủ trương
xây dựng Bửu Hương tự mà nay trở thành di tích được xếp hạng cho nhân dân trong
vùng và khắp nơi đến chiêm bái và ghi ơn công đức của nghĩa binh Gia Nghị và Quản
cơ Trần Văn Thành. Ông xứng đáng được ghi ân như những người có công khai hoang
vùng Láng Linh và làm tiền đề cho sự phát triển vùng sâu thuộc huyện Châu
Phú sau này.
______________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Trần Thu Lương - Võ Thành Phương - Khởi nghĩa Bảy Thưa, NXB TP.HCM 1999.
(2) UBND tỉnh An Giang - Địa chí An Giang, Sở VHTT An Giang 2003.
(3) Võ Thành Phương - Tìm hiểu An Giang xưa, Văn nghệ An Giang 2004.
VÕ THÀNH PHƯƠNG (tác giả giữ bản quyền)
__________________________________________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét