Dòng đời
mãi trôi, mới đó mà cuộc đời mình đã bước sang bên kia đỉnh dốc. Quảng đời đã
qua ngẫm lại biết bao dâu bể trầm luân. Cuộc sống vẫn nhiêu khê và lắm nỗi băn
khoăn khắc khoải. Thân mình chỉ là một hạt bụi mù giữa sa mạc mênh mông mờ mịt
của cuộc đời. Nhưng gió trần gian vẫn cuốn mình theo vòng xoáy vô tình vô định.
Chị Tư Hiền lấy chồng năm mười chín tuổi. Con gái ở
cái xứ miền Tây sông nước này thì cái
chuyện mười tám, mười chín, đôi mươi lấy chồng là chuyện bình thường. Nhà Tư Hiền
ở xóm Hoa Lạc, chị con bà Năm Mót, nổi tiếng nghèo nhất trong vùng. Dì Năm Mót
cũng lấy chồng từ rất sớm, năm mười sáu tuổi. Cuộc đời làm dâu của dì có kể ra
thì nghìn lẻ một đêm cũng không hết.
Nghe mấy người lớn kể lại, hồi đó nhà dì Năm nghèo lắm.
Dì sống bằng nghề giăng lưới, cắm câu. Con gái xứ đồng giỏi lắm, đặt lờ, giăng
lưới là chuyện bình thường. Một hôm, có người nhà giàu đến hỏi cưới dì. Người
nhà giàu ấy rõ ra là con trai nhà ông Điền xóm trên, gia cảnh giàu sang, ruộng
vườn mênh mông cò bay thẳng cánh. Mặc dù gia đình hết sức ưng thuận, mong gả
con gái ở chỗ giàu sang cho nó sung sướng tấm thân, nhưng dì Năm một mực không
nghe lời cha mẹ, vì lúc đó dì đang thầm yêu một người trong xóm -đó là dượng
Hai Thành. Dượng mồ côi cha mẹ, sống lam lũ, cực nhọc bằng nghề đốn củi mướn
trong rừng, tới mùa thì gặt lúa, vác lúa kiếm kế sinh nhai. Gia đình dì Năm can
ngăn, nhưng dì đã quyết là làm. Rồi một ngày trời mưa tầm tã, người trong xóm
phát hiện ra dì Năm cùng Hai Thành bỏ trốn khỏi vùng, biệt tăm…
Dì Năm lấy
chồng, mấy năm sau, dì sinh con.
Dì Năm đẻ
được ba mụn con, hai gái, một trai. Một ngày khi đứa con thứ ba của dì ra đời
là lúc chồng dì - tức dượng Hai Thành đột ngột qua đời trong một lần trúng nọc
rắn hổ mang khi đi rừng đánh lưới. Một thân một mình, dì làm đủ mọi nghề để
nuôi thân, nuôi con. Đứa con đầu lòng của dì rõ là một tay ăn chơi có tiếng, suốt
ngày rượu chè, cờ bạc, hết quậy trong nhà đến quậy làng phá xóm. Hết tiền thì
sinh ra ăn cắp. Đồ đạc trong nhà cái nào có giá là hắn bán đi không chừa một
món. Đôi bông tai móc cân của dì, chiếc nhẫn vàng mà dượng Hai sắm cho dì hồi mới
cưới không cánh mà bay. Có bữa hắn tụ tập
nhậu nhẹt trong nhà inh ỏi như âm binh, quỷ xứ, hàng xóm cứ đứng bên
ngoài mà chửi rủa “cái thứ mất dạy, chết yểu đó”. Rồi một ngày, người ta phát
hiện hắn bị vộp bẻ khi say rượu nằm chết còng queo dưới mươn dẫn nước vào đồng.
Không biết có ai thương xót hay không mà chỉ nghe xóm làng bàn tán nhau “cái thứ
đó chết đi cho rảnh nợ”.
Đứa con
gái thứ hai của dì chán cảnh sống nghèo nàn, cực khổ, chán cái buồn, cái khổ của
xóm Hoa Lạc nên theo chúng theo bạn lên Sài Gòn “mần ăn”, từ đó bặt vô âm tín, không
một lá thư nhắn gửi về cho dì. Có lần dì lặn lội lên tận Sài Gòn tìm con, nhưng
Sài Gòn rộng lớn không biết con dì ở nơi đâu, còn sống hay đã chết, nếu chết rồi
thì xác nó ở đâu… Chừng năm, sáu năm tìm kiếm không thấy tin tức gì của con, dì
đành nuốt nước mắt từ bỏ cái giấc mộng “tìm con”, trở về sống tiếp cái phần đời
đau khổ mà ông trời đã sắp đặt, định mệnh an bày, dì chỉ còn biết chấp nhận…
Còn Tư Hiền, đứa con gái út của dì Năm, mười ba - mười
bốn tuổi đã biết theo mẹ ra đồng, cấy lúa, giăng cá, đặt lờ, giống như cái tính
chăm chỉ, giỏi giang của dì Năm hồi xưa. Tư Hiền suốt ngày quần quật trên đồng,
hết giăng lưới, đặt lờ thì rong kinh xúc tép, mò ba khía về muối, đem ra chợ
bán. Cuộc sống nghèo khổ, nhưng hai mẹ con nương tựa vào nhau, kiếm đồng ra đồng
vô, sống đắp đổi qua ngày. Tư Hiền cực khổ từ nhỏ, chị là đứa con gái được người,
được nết nhất xóm Hoa Lạc này. Dù suốt ngày ở ngoài đồng ngoài ruộng, nhưng da
chị vẫn trắng hồng phơn phởn, không một vết nám do rám nắng hay một vết chai sạm
do tiết trời miền Tây tháng năm, tháng sáu. Năm mười chín tuổi, trai trong xóm
ước mơ được se duyên kết tóc với chị Tư. Nhưng hễ ai lại mối mai hay dạm hỏi
thì chị Tư cũng lắc đầu, chị nói phải phụng dưỡng mẹ già, chị mà lấy chồng rồi
ai mà lo cho mẹ chị, tuổi bà cũng đã xế chiều rồi… Thấy con nói vậy, dì Năm
cũng buồn bã mà nghe theo.
Một ngày đầu
tháng sáu, bà mai dẫn lại nhà dì Năm một người con trai - cậu Hoàng xóm trên, ngỏ
ý muốn kết đôi với con gái dì, chị Tư Hiền…
Nhà cậu
Hoàng giàu có, cậu đi học trường trên Sài Gòn mới về, rõ tiếng là con nhà thư
sinh, gia giáo. Cậu lại lễ phép, có học. Người giàu như thế mà cũng để ý đến mẹ
con dì thì thật là phúc đức ba đời nhà dì. Dù cho con dì không nghe lời mẹ, nhưng
dì cố khuyên con lấy chồng, may ra gửi nhờ tấm thân mà mẹ cũng yên lòng. Tư Hiền
khóc sưng cả mắt, nhưng rồi thấy mẹ mình có lí nên cũng nghe theo.
- Con chỉ lo cho mẹ, mẹ cũng đã già rồi, con mà đi lấy
người nhà giàu thì ai ở nhà lo lắng cho mẹ. Ai sẽ giúp mẹ ra đồng, ai sẽ nấu
cơm cho mẹ ăn hay chăm sóc mẹ khi trái gió trở trời?
Dì Năm buồn
bã:
- Tao có ba đứa con, hai đứa kia thì nó xong đời nó
rồi, chỉ còn mỗi mình mày thôi! Mày phải yên bề gia thất để ba mày dưới kia còn
yên lòng, tao cũng hạnh phúc. Chọn nơi mà gửi thân con à! Nhà người ta giàu may
ra mày hưởng phước đó con. Mày thoát khỏi cái nơi nghèo túng này là tao mừng
cho thân mày rồi, ráng lên con à…
Dì len lén lấy
tay áo chấm nước mắt, mà chắc rằng những giọt nước mắt ấy có đáng là bao so với
những giọt nước mắt đang chảy ngược vào tim dì, quặn lên như cứa vào gan, vào
ruột người mẹ nghèo khổ ấy.
Thấy mẹ nói
vậy, Tư Hiền ôm bà, nức nở…
Đám cưới
xóm bên rình rang, nhà Tư Hiền chỉ vẻn vẹn có hơn chục người. Mấy người trong
xóm thương mẹ con Tư Hiền cũng đến góp vui.
Đoàn người
rước dâu bằng ghe đi qua. Tư Hiền ôm mẹ khóc nức nở. Chị bước xuống ghe mà lòng
héo úa, nước mắt thấm ướt cả ngực áo, nghẹn ngào… Còn Dì Năm bề ngoài mạnh mẽ, sốt
sắng, nhưng thỉnh thoảng vẫn đứng lặng trong mọt góc nhà mà chùi nước mắt. Chắc
hẳn lòng người mẹ còn nhiều lo âu, buồn tủi, không biết mai này mình sẽ ra sao,
con sẽ ra sao, bên chồng nó giàu liệu có khinh khi người nhà nghèo này không? Dì
suy nghĩ mà tim tan, ruột nát.
Tiếng máy nổ,
chiếc ghe rước dâu về nhà chồng rời bến,
rời xóm Hoa Lạc, đưa Tư Hiền rời khỏi cái nơi nghèo khổ mà nặng nghĩa, nặng
tình. Rời xa bến cũ, bắt đầu cuộc sống mới với kẻ xa người lạ, rồi những chuỗi
ngày tiếp theo của chị sẽ ra sao?
Người ta đã
đưa đứa con gái út của dì đi mất rồi…
Đoạn Tư
Hiền về nhà chồng hẳn là đoạn đời buồn nhất của cuộc đời đứa con gái mười chín
tuồi. Nhìn nhà chồng rộng lớn, đám cưới rình rang mà chị thấy tuổi thân chột dạ.
Rồi một mình chị sẽ đối mặt với người dưng, với mẹ chồng, ba chồng, với những
người chị chồng, em chồng… những con người xa lạ. Chồng chị - cậu Hoàng - là
người có học thức, liệu rằng anh có khinh con người nghèo khó, chân lắm tay bùn
này hay không? Chỉ gặp có vài lầ mà nên chồng nên vợ, nghĩ bao nhiêu thôi mà giọt
lệ cứ tuôn trào, chị phải giấu nó vào mi mắt kẻo người ta thấy mà trách, mà rầy…
Chiều hôm
ấy, chị Tư Hiền nấu cơm trong bếp, mẹ chồng chị ngồi ngoài nhà trước, nhai trầu.
Nhà chồng chị sống theo nếp xưa nên chị phải hết sức ý tứ, giữ khuôn, giữ phép.
Nồi cơm đang sôi ùng ục trong bếp, gạo của người nhà giàu khó nấu cơm, chị để lửa
quá nhiều nên nồi cơm nhão đi một chút, nhưng không đến nỗi nào.
Bữa cơm hôm ấy…
- Nồi cơm này ai nấu - Tiếng bà Hai Phượng - mẹ chồng
chị hậm hực.
Chị Tư run
run.
- Dạ là con nấu, thưa mẹ…
- Mày nấu cho tao, cho các con tao ăn hay mày nấu
cho heo nó ăn mà nhão be bét thế kia? Người chúng tao ăn cơm ngon, mặc đẹp chứ
không phải như cái thứ khố rách áo ôm, đụng gì ăn nấy kia đâu nghe con…
Chị Tư sụt
sùi.
- Con… con xin lỗi, con…
Cậu Hoàng liếc
nhìn chị Tư một cái, rồi ăn qua quýt mấy chén cơm.
Bữa cơm hôm ấy thật căng thẳng, nạnh ai nấy ăn, chỉ
nghe tiếng xù xì léo chéo của mấy người chị dâu, cái liếc mắt cay độc của Hai
Phượng và sự buồn tủi lẫn hỗ thẹn đang len lõi trong tâm hồn chị Tư Hiền.
Nhỉnh hơn
mấy tháng, chị Tư mang thai. Mấy tuần đầu, thai hành chị sốt lên sốt xuống. Đã
thai hành khó chịu mà chị không dám ngưng việc, một tay chị chẻ củi, nấu cơm, ra
đồng gặt lúa. Nhà chồng chị giàu nhưng nổi danh keo kiệt, thật ra ai giàu cũng
vậy thôi, người ta giàu một đồng, người ta muốn để cho nó đẻ ra hai, ba đồng. Chị
Tư làm đồng từ sáng tới trưa không ngưng nghỉ. Chị hiểu rằng một đứa nghèo như
chị thì người nhà giàu cưới rồi bỏ đi mấy hồi, nghĩ nhiêu đó mà chị xót xa vô hạn.
Chị nhớ mẹ, không biết giờ này mẹ chị ra sao, mạnh khỏe hay ốm yếu, chắc một điều
là bà nhớ chị rất nhiều vì từ khi lấy chồng tới giờ, chị chưa về thăm nhà một lần,
mà có về cũng không ai cho, hoặc nếu họ có thương tình cho chị về nhà thì cũng
không sao về được, có đò đâu mà về…
“Lời ru ai đó ngóng trông
Muốn về quê mẹ mà không có đò”
Nước mắt
chị rưng rưng, hai bàn tay mới mấy tháng thôi mà đã chai từng vết cứng ngắt, và
làn da chị sạm nắng…
Rồi một
ngày, chị thấy chỗ kín của mình ra máu, rồi cơn đau bụng quằn quại, cái thai
chưa tượng hình trào ra. Thì ra là chị lội
đồng, ôm lúa đến sảy thai. Chị ôm mặt khóc. Cơn đau hoành hành như xé từng thớ
thịt, miếng da.
- Cái thứ con gái hư thân mất nết, có con mà cũng
không biết giữ, mày hại chết cháu của tao, mày sẽ không được yến ổn! Con quỷ… -Tiếng
Hai Phượng rủa dâu vang vọng.
Hai Phượng dúi đầu chị Tư ngã nhào xuống đất.
Chị khóc, mặc cho cơn đau cứ âm ĩ, không ai đưa chị đai bệnh viện, máu cứ rỉ ra
giữ hai chân chị. Chị ngất đi, mặt xanh mét.
Tư Hiền tỉnh
dậy thì thấy mình đang nằm trong một phòng bệnh của trạm y tế xã, ngồi kế bên
chị là Út Nhỏ. Út Nhỏ là người trong xóm, hồi trước ở đợ cho nhà Hai Phượng, từ
khi Hai Phượng cưới dâu thì cho Út nghỉ việc. Thì ra trong lúc Tư Hiền ngất xỉu,
Hai Phượng đã nhờ Út mang chị ra trạm xá, còn gia đình bà thì không ai bén mảng
tới, kể cả cậu Hoàng chồng chị… Chị Tư xoa bụng, khóc…
- Ai cũng có cái khổ cô ơi! Cô đừng buồn nữa, người
ta đối xử tệ với cô thì cô còn thiết mà ở đó làm chi.
Út Nhỏ xoa
bàn tay chị Tư, chị ôm Út mà nức nở.
- Chị khổ quá Út ơi!
Trạm xá vắng
tanh, giữa trưa quê vắng lặng, trong phòng bệnh chật hẹp và bụi bặm, chỉ có hai
người phụ nữ, hai con người đau khổ, mỗi người một nỗi khổ riêng, buồn bã, tuyệt
vọng. Ngoài bến sông, tiếng ghe của ai vọng lại ình ịch như tiếng ghe ngày ấy cậu
Hoàng rước chị về nhà “làm vợ”. Chị thấy nhớ mẹ, chị khóc, chị đau, chị tủi nhục
ê chề, nước mắt chị tuôn ra, nỗi đau thân xác, nỗi đau trong lòng cứ quặn lên
trong trái tim tổn thương, nhiều mảnh vá.
“Chim đa đa đậu
nhánh đa đa
Chồng gần không lấy, đi lấy chồng xa,
Một mai cha yếu mẹ già
Chén cơm, đôi đũa, tách trà ai dâng”
Chị Tư ngồi nơi bến sông, mong con đò nào cập
bến đưa chị về với mẹ…
Hỡi ôi! Con đò nơi đâu, đò sẽ đưa chị về với
mái ấm, với vòng tay của mẹ. Nơi quê tuy nghèo mà nặng tình nặng nghĩa. Người nhà
giàu ác quá, vô tâm quá mẹ ơi!
Xuồng cập bến,
chị Tư ngẩn ngơ, đôi mắt đầm đìa nước mắt. Bên hiên, me chị đang ngồi chuốc từng
cọng lạc dừa, bó chổi.
- Mẹ ơi!
HOÀNG KHÁNH DUY
_____________
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét