Tần Hoài Dạ Vũ, một nhà thơ mà tôi mến mộ
gần 60 năm trước. Anh nhỏ hơn tôi ba tuổi, nhưng khi tôi còn viết báo tường
trong lớp học thì tên tuổi anh đã có trên văn đàn miền Nam Việt Nam. Thời đó
thơ anh thường được đăng trên những tờ báo văn học có giá trị như Văn, Bách
Khoa, Văn học, v...v...
Sáu mươi năm sau, ở tuổi quá thất thập, tôi
mới hân hạnh gặp được Tàn Hoài Dạ Vũ; ngồi uống cà phê cùng anh và nghe anh tâm
sự về cuộc đời mình.
Anh cũng như tôi, đều đồng ý rằng, đời
chẳng phải lúc nào mình cũng chọn đúng và cũng chẳng phải lúc nào đời cũng hiểu
đúng mình.
Tôi tôn trọng anh bởi tình yêu văn chương
và tình yêu quê hương nồng cháy trong
con tim nóng hổi của anh.
Về nhà nằm đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ, tôi cảm
động biết bao bởi tiếng thơ đã quên đi từ dạo ấy trong tháng ngày lận đận, bây
giờ nó lại đến như một mối tình thiết tha quay lại với mình.
Tần
Hoài Dạ Vũ có những bài thơ như bài thơ “Cuồng
Ca”, là những bài ca đam mê của con tim dại khờ trước thần tượng hay ảo
ảnh, trước mơ hồ hay chân lý. Tuổi trẻ nào đâu biết được nhiều, chỉ lao vào,
lao tới để muốn bắt cả “trời xanh trong kẽ
tay”.
Đọc những bài thơ ấy, tôi như nghe được con
tim mình nhói đau vì định mệnh của đời:
Ta
xẻ buồng tim hát tự do
chờ
khi trăng loạn xuống ngang mày
níu
trăng ta múa cùng hư ảnh
mai
bắt trời xanh trong kẽ tay !
(Cuồng ca)
Tôi đã
khóc vì tôi đồng cảm với thơ. Ai trong chúng ta ở tuổi dại khờ không từng xé
con tim cho tự do, không từng muốn đưa tay với bắt trời xanh (?). Thế nhưng,
một ngày quay nhìn lại, ta thấy ta “níu
trăng” mà “múa cùng hư ảnh”.
Đau xót biết bao khi con đò đưa ta qua bến
bờ chân lý bỗng nhiên trở thành ảo ảnh. Hụt hẫng biết bao khi ta qua chưa hết
chuyến đò mà đã thấy sự chết ở bờ bên
kía:
... Trên
đò ngọn gió tịch liêu
Lạnh
lùng thổi lại hồn chiều bơ vơ
Ta
qua chưa hết chuyến đò
Thấy
trăng đứng đợi bên bờ tử sinh
Thấy
sông trôi lại bóng mình
Biết
ta là bóng hay hình rong chơi
Tình
xưa đã chết bên trời
Chiều
nay sông nước đọc lời điếu tang
Hỏi
quê nào biết đâu làng
Lòng
không, còn lại mấy hàng mây trôi.
(Đò Chiều)
“Tình
xưa đã chết bên trời”
nhưng “chiều nay sông nước” mới “đọc lời
điếu tang”. Nhà thơ đâu dễ gì quên được cái tình xưa đó, nhưng chiều nay,
khi nhìn sông nhìn nước u buồn thì mới ngộ ra mình phải dứt khoát với mối tình
tan vỡ kia. Có lẽ thế hệ chúng tôi, bởi hệ lụy của chiến tranh, đã có biết bao
nhiêu mối tình đau xót như Tàn Hoài Dạ Vũ. Nếu gặp nhau nên ôm nhau mà khóc,
đừng trách chi nhau, vì có khi đời ta đâu phải do ta định đoạt.
Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ chỉ sáng tác một bài
thơ “Cuồng Ca” nhưng đọc thơ anh ta
thấy loại thơ như Cuồng Ca nhiều lắm. Tiếng lòng của nhà thơ tha thiết, nỗi ân
hận vì những đổ vỡ trong đời dày vò, và tiếng thơ của nó reo như dòng suối buồn
triền miên chảy qua những đại ngàn. Suối đó không bao giờ thành một dòng sông,
vì nó chỉ chảy trong con tim của đại ngàn có tên Tần Hoài Dạ Vũ. Suối âm thầm
róc rách chỉ để suối nghe. Ai muốn nghe thì hãy đến với đại ngàn có con suối
kia, để ngồi lại nhìn phong lan rủ xuống bên bờ suối và thấy nó đẹp. Ai không
muốn nghe thì cứ quay lưng đi về chân trời
lửa cháy của mình.
Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ không cuồng loạn,
nhưng vẫn đam mê đến suốt một đời, kéo dài niềm luyến ái và nỗi đau như câu thơ
của ai đó“Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói
huyền bay lên mây” nhưng khác một chút, có thể gọi là, nhớ tình châm điếu
thuốc/ khói huyền loan trên tay:
Hồn
thôi bỏ mặc cho sương xuống
thương
nhớ không vàng giọt nắng hanh
Dừng
chân dưới cột đèn châm thuốc
không
gió mà tay lạnh rất đầy
(Chiều Mưa Uống Rượu)
Người ta thích
nói “thương nhớ làm vàng nắng chiều”, mấy ai nói “Thương nhớ không vàng giọt nắng hanh”
như Tần Hoài Dạ Vũ ? Giọt nắng hanh mà không vàng được, bởi thương nhớ đã làm
cho mòn mỏi tâm hồn. Giọt nắng không vàng được, bởi sinh khí của tình yêu đã hết.
Nó không hết bởi không còn yêu nữa, mà hết bởi niềm đau cùng tận khiến cho con
tim yêu chỉ còn thoi thóp thở. “Tay lạnh
đầy” không phải vì gió lạnh mà vì châm điếu thuốc. Khói của thuốc làm tay lạnh,
vì khói ấy quyện trong và với kỷ niệm một thời. Đốt thuốc không phải vì thèm
thuốc, đốt thuốc để nhớ ngày xưa. Nhớ ngày xưa nên đốt thuốc dưới cây cột điện
cô đơn, với tâm hồn đã sương xuống lâu rồi. Thơ như thế không phải thơ diễn ý
mà là thơ nhập hồn. Nó là loại thơ lên đồng mà con đồng vẫn tỉnh táo. Nó thăng
hoa trong nỗi đau và nó thành thi ca như con nhộng rúc vào trong chiếc kén của
mình. Nhộng sẽ chết trong kén và người kéo tơ để nhìn tơ đẹp chính là ta, là bạn
đọc bài thơ.
Thơ tình của Tần
Hoài Dạ Vũ là thứ “thơ tình không có tuổi”
như thi sĩ đã tâm tình:
Qua
năm tháng dầu tuổi có già đi
nhưng tâm hồn tôi
vẫn vậy
Vẫn
đắm say cuộc đời như lúc thanh niên
Quả vậy, thơ
tình của Tần Hoài Dạ Vũ có dòng thơ “Giọng
buồn của tượng”. Nó như ngọn gió đưa tình sử bay vèo. Rồi tình sử đó hóa
thành tượng trong hồn. Tượng đứng cô đơn thương tiếc cho một thời vụng dại. Bài
thơ có 16 câu, xin vui lòng cho tôi rút ngắn:
...“Công
viên buồn tượng hồn tôi dựng đó
Khi
vàng bay lá nhớ chớm sang mùa”
...“Tôi
sẽ khóc bằng con tim của đá
Ru
êm đềm theo những bước đêm trôi
...“Trên
bệ cao trọn kiếp này đứng rũ
Từng
đêm nghe gió lạnh thổi trong hồn”
(Giọng buồn của tượng)
Tượng ở ngoài đời
đặt nơi công viên thì lạnh. Tượng đặt ở trong hồn tưởng ấm mà lại lạnh hơn!. Đá
không có con tim nên đá khóc chỉ vì sự tưởng tượng của người. Người có con tim
máu đỏ nhưng lại khóc bằng con tim của đá. Khóc bằng con tim của đá vì nỗi đau
cô đọng, quắn lại, khô cứng, thê thiết biết bao! Ở đây, thơ đã làm tình yêu
thành tượng và thơ đã làm cho tượng chảy thành tình yêu. Đó là phép biến hóa của
thơ, hay nói đúng hơn là thiên tài của người thi sĩ!
Tần Hoài Dạ Vũ
thích đá, anh khóc bằng con tim của đá và anh yêu cũng bằng con tim của đá:
Có
một buổi ta nằm say trong đá
Hồn
theo em mây trắng phía chân trời
Rồi
ngàn buổi giấc mơ đầy bướm lạ
Đá
không lời mà lệ hóa sao rơi…
(Lê
Đá)
Ai đã một lần nằm
cô đơn, nhìn bầu trời rất thấp, với trăng sáng, với mây bay, với sao rơi thì sẽ
cảm nhận hết cái vô cùng lãng mạn của bài thơ. Nhà thơ đã hóa thành đá. Đá bị
chôn chân một chỗ để nhìn tình yêu thơ mộng, bao la bát ngát vây quanh mình, rồi
sau đó bay đi, đến tận chân trời nào xa thẳm. Rồi bỗng nhiên đá khóc, lệ lại
thành những áng sao rơi. Nghịch lý chăng? Không, hư cấu trên cả hư cấu. Hãy
hình dung từng giọt nước mắt lăn tròn trên đá, rồi từng giọt nước mắt nầy phản
chiếu những ánh sao rơi. Ánh sao rơi sáng trên bầu trời sẽ long lanh trong nước
mắt. Đẹp biết bao và tha thiết biết bao!. Chúa Jesus phán rằng:”Nếu loài người không tôn vinh ta, ta sẽ
làm cho đá cũng biết nói để tôn vinh
ta”. Vậy đá mà yêu, đá mà khóc thì cao quý hơn người! ! Đá yêu, đá khóc, đó là con tim của nhà thơ Tần
Hoài Dạ Vũ.
Tần Hoài Dạ Vũ
yêu Huế. Anh là dân Quảng Nam nhưng tuổi thanh xuân ở Huế. Anh học Quốc Học, Đại
học Huế, rồi vào đời lập nghiệp ở Huế. Anh từ giã Huê trong biến động của tâm hồn,
để lặn lội 30 năm sau ngày xa Huế, viết về văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng.
Trong lận đận hai phần đời người, nhà thơ vẫn giữ Huế trong lòng để nhớ khôn
nguôi:
Và
nhớ giữ lại cho ta
Những
buổi sáng mù sương trắng áo
Vai
cầu nghiêng một nét xuống trang thơ
Dòng
sông xa sương trải lụa đôi bờ
Giọng
hò đỡ tôi lên từ những ngày niên thiếu
(Từ Biệt Huế)
Nhớ để rồi hẹn
quay về:
Anh
sẽ về một sáng mùa thu
sông
Hương còn trắng những sương mù
áo
em trắng nhịp cầu thương nhớ
bóng
ngã lòng anh câu hát ru
Anh
sẽ giong thuyền trên nước xanh
chở
trăng Gia Hội vào Nội thành
soi
nghiêng mái tóc thề Tôn nữ
thiếp
giữa một vùng hương mỏng manh
(Hẹn Về Với Huế)
Huế của Tần Hoài
Dạ Vũ một màu trắng: sương trắng, cầu trắng, áo trắng, và không chỉ có vai cầu,
mà tất cả “nghiêng xuống” trang thơ của
anh, đỡ anh đứng dậy, và cho anh thiếp vào một “vùng hương mỏng manh” mỗi
khi nhớ đến nó. Đọc Huế trong thơ Tần Hoài Dạ Vũ và nhìn Huế ngày nay, tôi muốn
bật khóc. Bởi vì "dấu xưa xe ngựa"
không phải "hồn thu thảo"
mà hồn nó đã tân thời quá lứa, "nền
cũ lâu đài" không phải "bóng tịch dương", mà nền cũ
lâu đài có nơi thì bệ rạc, có nơi sơn quết mới một màu phồn hoa lòe loẹt và hợm
hĩnh...
Tần Hoài Dạ Vũ
còn có dòng thơ “Đi tìm sự thanh bình”.
Một đời anh ao ước
thanh bình, dấn thân cho thanh bình, để phải mang nhiều hệ lụy, đến nỗi anh phải
viết Di ngôn. Bài thơ có 20 câu, tôi
xin rút ngắn:
...“Rồi
anh sẽ gối đầu lên giấc mộng
Ngủ
quên đời trong giường mộ bình yên”
...“Xin
em hãy liệm anh bằng tiếng hát
đắp
mặt anh bằng mái tóc em buồn”
...“Em
có nhớ, thắp hương bằng nước mắt
Ngọt
vô cùng anh sẽ uống no say”
...“Và
em hãy viết thư bằng cổ tích
Đừng
nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù
Anh
sẽ tưởng hồn anh không xiềng xích
Bay
tìm em dù gió cát, sương mù”
(Di Ngôn)
"Di
ngôn" cho ta thấy linh hồn nhà thơ bị xiềng xích. Xiềng xích khi còn sống
và có lẽ cả khi đã qua đời. Nhà thơ phải nhờ em “liệm anh bằng tiếng hát”,
“đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn”, “thắp
hương bằng nước mắt”, vì như vậy thì
họa may anh mới “tưởng rằng” linh hồn
anh không còn xiềng xích nữa. Điều đó cho thấy anh “đi tìm sự thanh bình” suốt một đời không có được.
Thơ Tần Hoài Dạ
Vũ còn thể hiện một tâm hồn thánh thiện với lòng bao dung vô bờ bến. Anh có
dòng thơ “Thơ Tặng Lòng Bao Dung”
trong đó có những bài thơ như “Thư gửi một
người lỗi lầm” kết tủa lệ của anh thành từng chuổi hạt vị tha, vừa long
lanh nhưng cũng vừa giá buốt:
"Đừng
nghĩ tới những nỗi đau buồn phải gánh chịu. Bằng sự gội rửa tâm hồn em sẽ trở
nên giá trị hơn với chính em.
...Đừng
chán nản vì ngày vui ngắn ngủi còn nỗi buồn thì muôn trùng, em thân yêu."
(Thư gửi một người lỗi
lầm)
Đọc thơ Tần Hoài
Dạ Vũ, tôi có cảm tưởng anh đi một mình suốt cả cuộc đời. Bước đi một mình, một
mình bước đi. Thơ anh qua sa mạc, qua rừng, qua phố, qua cả một đời trong chiếc
bóng lẻ loi của mình. Hạnh phúc anh có được không phải là sự đoàn tụ; niềm vui
anh có được không phải là sự đoàn viên, mà là những gì sót lại, rơi ra, nhà thơ
nhận nó cho riêng mình:
Cái
nắm tay bên cửa sổ toa tàu
như
nốt nhạc rơi bên ngoài nỗi nhớ
như
thời gian rơi bên ngoài đổ vỡ
kỷ
niệm đầy vị ngọt của tương lai
Những
dòng sông trôi đi, cuộc sống vẫn còn dài
cơn
gió cũ qua rồi đời vẫn mát
một
góc phố một khoảng trời xanh ngát
lại
đưa ta về trong mắt của tình yêu.
(Những cuộc chia tay
và trở lại)
Vâng, nhà thơ lượm
cái rơi bên ngoài nỗi nhớ, lượm cái rơi bên ngoài đổ vỡ, để cho cơn gió cũ qua
rồi lại làm mát lòng khi nhớ về một góc phố, hay một khoảng trời đã mất. Đó là
Tần Hoài Dạ Vũ. Tôi đọc và hình như tôi thấy anh chỉ có hai bàn tay trắng với nỗi
cô đơn trùm lên cuộc đời. Cuộc đời Tần Hoài Dạ Vũ là một cuộc dấn thân vào chốn
bụi mù, đi tìm thanh bình cho đời và đi tìm văn học cho quê hương.
Thơ Tần Hoài Dạ
Vũ như một vườn hoa có quá nhiều bông hoa đẹp. Tôi nhắm mắt để bốc đại, được
bông nào thì ngắm nhìn bông đó, viết về bông đó. Để nói về nhà thơ nầy, phải có
hàng trăm trang giấy, chưa nói đến phải có hàng ngàn trang viết.
Hy vọng tôi sẽ còn nhiều cơ hội để viết nữa về
anh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét